phim Đấu Tranh Gia Tộc |
Đạo diễn: Tigmanshu Dhulia Diễn viên: Irrfan Khan, Jimmy Shergill, Soha Ali Khan, Mahie Gill Thể loại: Hành Động, Tình Cảm, Sản xuất: Brandsmith Motion Pictures, Select Media Holdings- Moving Pictures, Tigmanshu Dhulia Films Quốc gia: Ấn Độ Thời lượng: 142 phút Năm phát hành: 2013 Nguồn: Sưu tầm Giới thiệu: Bộ phim "Đấu Tranh Gia Tộc - Saheb Biwi Aur Gangster Returns 2013 (HD)": Sự đấu tranh giữa các quyền lực trong gia tộc, với những vụ mua bán tình ái để đổi lấy danh vị làm cho bộ phim trở nên kịch tính và hấp dẫn cùng với đó là những diễn viên trẻ đẹp, diễn xuất hoàn hảo và đang có tiếng nói trong thế giới showsbit Ấn Độ. Mời các bạn thường xuyên truy cập website chúng tôi để cập nhật những bộ phim tình cảm ấn độ hay nhất năm 2013cdfghjkl
phim Đấu Tranh Gia Tộc
Để bắt đầu, cần phải nói ngay rằng, trong cái mà người ta gọi rất chính xác là lý thuyết cổ điển về thơ ca (la théorie classique de la poésie), đó chính là mối liên hệ với thế giới bên ngoài được khẳng định rất chắc chắn. Người ta nhớ và nhắc lại đến nhàm tai một vài cách diễn tả của các tác giả cổ điển, ngay cả khi người ta đã đánh mất đi ý nghĩa của tác phẩm. Chẳng hạn, theo Aristote, thì thơ ca là bắt chước (imiter) tự nhiên, còn theo Horace thì thi ca có sứ mệnh làm cho độc giả vui thích (plaire) và đểdạy đời (instruire). Mối liên hệ với thế giới bên ngoài, có một vị trí quan trọng đối với tác giả – người thấu triệt những gì xảy ra của thế giới ấy, và vì thế mới có thể “bắt chước” được; cũng như đối với độc giả, thính giả để có thể tìm thấy được niềm vui thú, và rút ra từ đó bài học cho chính cuộc sống của họ.
phim Đấu Tranh Gia Tộc
Ở châu Âu, vào những thế kỉ đầu, Thiên chúa giáo bành trướng, thi ca có nhiệm vụ trước hết là truyền bá và biểu dương một triết lý, bằng cách giới thiệu một phiên bản dễ tiếp cận và ấn tượng nhưng lại kém chính xác. Đến lúc thoát ra khỏi cái triết lý nặng nề ấy, thi ca lại trở về bản chất hồn nhiên của nó. Thời Phục Hưng, thi ca có sứ mệnh phải Đẹp nhưng cái đẹp đó gắn liền với Chân và Thiện. Và ta cũng nhớ lại câu thơ của Boileau: “Không gì đẹp bằng chân lý và chỉ chân lý mới đáng yêu” (Rien n’est beau que le vrai, le vrai seul est aimable). Hẳn người ta cũng thấy rằng những công thức ấy chưa được đầy đủ, nhưng thay vì vứt đi, người ta tìm cách làm cho phù hợp với hoàn cảnh.
Đến thời hiện đại, quan niệm trên bị lung lay bằng hai cách khác nhau, mà cả hai đều do lối nhìn mới về việc thế tục hóa tôn giáo (sécularisation) và thiêng liêng hóa nghệ thuật (sacralisation) cùng xảy ra đồng thời.
Cách thứ nhất, lấy lại một hình ảnh xưa và khôi phục lại giá trị: nhà nghệ sĩ sáng tạo sánh với Đấng Tạo Hóa, đã tạo ra những quần thể chặt chẽ và khép kín. Thượng đế của thuyết độc thần (Dieu du monothéisme) là một đấng tạo hóa vô hạn, đã tạo dựng một vũ trụ hữu hạn; khi thi sĩ bắt chước Đấng Tạo Hóa, anh ta giống như một vị thần tạo ra những sự vật xác định (thường là so sánh với Prométhée). Hoặc thiên tài ở trần gian (génie humaine) bắt chước Thiên Tài Tối Thượng, đã tạo dựng ra thế giới chúng ta.
phim Đấu Tranh Gia Tộc
Quan niệm bắt chước còn được giữ lại, nhưng vai trò của nó không còn nằm ở giữa tác phẩm – một sản phẩm xác định với thế giới bên ngoài; bắt chước bây giờ nằm ngay trong công việc sáng tạo, một bên là đại vũ trụ, bên kia là tiểu vũ trụ, mà không thấy trong tác phẩm bắt buộc phải có dấu vết của sự liên quan giữa hai bên. Người ta đòi hỏi rằng mỗi bên, tự nó, phải được sáng tạo chặt chẽ, nhất quán và không đòi hỏi hai bên phải tương ứng trong kết quả.
Quan niệm cho rằng, tác phẩm là một tiểu vũ trụ xuất hiện trở lại vào đầu thời Phục Hưng ở Ý, chẳng hạn như Hồng Y Nicolas de Cues, nhà thần học đồng thời là triết gia thế kỉ XV: “Con người cũng là một Đấng tạo hóa – với tư cách là người sáng tạo ra tư tưởng và các tác phẩm nghệ thuật”. Leon Battista Alberti, lý thuyết gia về nghệ thuật khẳng định rằng: người nghệ sĩ thiên tài vẽ hay khắc nên những con người sống và đã làm cho họ nổi bật lên như một vị thần linh bên cạnh những người trần.
Người ta cũng nói rằng, Thượng đế là người nghệ sĩ đầu tiên. Landino một đồ đệ mới của Platon thành Florence, cũng khẳng định rằng: “Chúa là thi sĩ tuyệt vời và thế giới là bài thơ của Ngài” (Dieu est le poète suprême et le monde est son poème). Câu nói hình ảnh này, dần dần trở nên tiếng nói chủ đạo trong nghệ thuật và dùng để ca ngợi sự sáng tạo của con người. Từ thế kỉ XVIII trở đi, hình ảnh này thống lĩnh cả phê bình và sáng tạo, dựa trên sự ảnh hưởng của một triết lý mới, triết lý của Leibniz. Ông ta đã nghĩ ra những khái niệm “monade” (đơn tử) và “monde possible” (thế giới có thể có), và cho rằng: nhà thơ minh họa cho những phạm trù này, bởi vì họ tạo ra song song với thế giới vật chất tồn tại, một thế giới độc lập, nhưng cũng rất nhất quán như thế giới hiện thực.
Cách thứ hai là phá tan cái nhìn cổ điển: khi nói lên mục đích của thơ ca không phải là bắt chước thiên nhiên, cũng không phải dạy đời và mua vui, mà để tạo ra cái Đẹp. Nhưng cái Đẹp được đặc trưng bởi việc nó không tạo ra cái gì khác ngoài chính nó. Cách giải thích này về quan niệm cái Đẹp – một ý tưởng ngự trị ở thế kỉ XVIII, chính là sự thế tục hóa khái niệm thần thánh (laicisation). Bằng những thuật ngữ này, cuối thế kỉ thứ IV, thánh Augustin mô tả sự khác nhau giữa những tình cảm mà người ta dành cho Thượng đế và cho con người: với mọi sự vật cùng mọi sinh vật, chúng ta có thể sử dụng (user), để làm cho nó trở nên siêu việt, nhưng chỉ với Thượng đế, chúng ta phải bằng lòng với việc hưởng thụ (jouir), có nghĩa là kính mến vì Chúa.
phim Đấu Tranh Gia Tộc
Phải nói rằng, bằng cách duy trì sự phân biệt của thánh Augustin giữa khái niệm sử dụng“user” và khái niệm hưởng thụ “jouir” trong phạm trù ngoại đạo của những hoạt động đơn thuần của con người, các lý thuyết gia thế kỉ thứ XVIII chỉ việc làm đảo ngược lại hành động của Augustin, bằng cách thêm vào lĩnh vực tôn giáo những phạm trù của Platon.
Chính Platon, người đã định nghĩa về Cái thiện tối thượng (Souverain bien) là cái thiện tự nó đáp ứng được chính bản thân nó: người mang cái thiện tối thượng trong mình, là có đầy đủ khả năng đáp ứng cho mình một cách hoàn thiện đến mức, không cần bất cứ điều gì khác. Chính Platon đã đề ra việc suy ngẫm một cách vô tư những khái niệm, và cũng chính ông là người mà, 22 thế kỷ sau, người ta sẽ viện dẫn, để bung phá ra một quan niệm khác về cái Đẹp. Như thế, nghệ thuật không còn bị quyết định bởi Thượng đế, mà là tác phẩm tự khẳng định, trong sự hoàn thiện của chính nó.
Kết quả của những sự thay đổi này là vào thế kỉ XVII và thế kỉ XVIII, sự chiêm ngưỡng về cái đẹp, phán xét về sở thích, ý nghĩa của cái đẹp được xác định như những thực thể tự do. Không phải con người ở những thời kì trước không nhạy cảm với vẻ đẹp của tự nhiên, cũng như với vẻ đẹp của các tác phẩm nghệ thuật, mà trước đó, nếu không đặt trong triết lí của Platon – nơi cái đẹp hòa vào với cái chân và cái thiện, thì những kinh nghiệm này, chỉ là một mặt của hoạt động, mà mục đích chính của nó lại ở chỗ khác. Người nông dân có thể thích công cụ đồng áng của mình, nhưng trước hết, công cụ đó phải hữu ích. Giới quý tộc đánh giá cao những hình trang trí trong cung điện của mình, nhưng với điều kiện chúng phải thể hiện đẳng cấp của họ trong mắt những vị khách. Người tín đồ Tôn giáo say mê âm nhạc mà họ nghe được ở nhà thờ, là vì những hình ảnh mà họ thấy được ở đó; nhưng sự hài hòa của âm nhạc cũng như những hình ảnh mà nó trưng bày, đều phải nhằm để củng cố đức tin. Nhận biết tầm quan trọng của thẩm mĩ trong mọi hoạt động và trong việc sáng tạo là một đặc điểm của một người toàn năng (humain universel).
Một tinh thần mới nổi lên ở châu Âu vào thế kỉ XVIII, sẽ là sự tách biệt cái không gian của vô số các hoạt động và rồi, sẽ kiến tạo nó thành sự hóa thân của một thái độ duy nhất: việc chiêm ngưỡng cái đẹp. Thái độ này càng được yêu thích khi nó mang những thuộc tính của lòng yêu kính đối với Chúa. Chính vì thế, người ta yêu cầu người nghệ sỹ sáng tạo ra những tác phẩm chỉ dành cho Chúa. Quan niệm mới này đã được phác thảo trong những bài viết của Shaftesbury và Hutcheson ở Anh. Nó cũng đã dẫn đến sự ra đời của khái niệm Mỹ học (Esthétique), trích nguyên văn là“Khoa học của tri giác” (Science de la perception) vào năm 1750, trong một quyển sách mà Alexander Baumgarten đã dùng để chỉ môn học mới này.
phim Đấu Tranh Gia Tộc
Tính chất đổi mới trong cách tiếp cận này, dẫn tới việc bỏ qua quan điểm của người sáng tạo (perspective du créateur), để chấp nhận quan điểm của người tiếp nhận(perspective du récepteur) – người mà mối quan tâm duy nhất đối với họ là chiêm ngưỡng cái đẹp. Sự thay đổi này đã dẫn đến nhiều hậu quả.
Hậu quả thứ nhất, nó tách rời nghệ thuật ra khỏi các hoạt động và nghệ thuật trở nên tuyệt đối. Ngày nay, hoạt động này bị đưa xuống một lĩnh vực hoàn toàn khác biệt: ngành thủ công, hoặc ngành kỹ thuật.
Nhìn từ quan điểm sáng tạo, hay sản xuất, người nghệ sĩ chỉ là một nghệ nhân chất lượng cao: cả hai đều hành một nghề với ít nhiều tài năng. Nhưng nếu chúng ta đem sản phẩm của họ đặt cạnh nhau thì người nghệ nhân đối lập với nghệ sĩ: một người sáng tạo ra sản phẩm vị lợi, người kia để ngắm nhìn chỉ vì sở thích cái đẹp; một người tuân theo tiêu chuẩn về lợi ích, người kia làm việc một cách vô tư; người này đặt trong lôgíc của việc “sử dụng” (user), người kia là “thưởng thức” (jouir), để cuối cùng nghiệm ra rằng: người này vẫn chỉ đơn thuần là con người, người kia gần với Thượng đế.
Hậu quả thứ hai, các nghệ thuật thống nhất với nhau trong một phạm trù nhất định nhưng chúng vẫn gắn bó với hoạt động riêng của mình. Thơ ca, hội họa, âm nhạc chỉ thống nhất với nhau nếu chúng ta đặt trong quan điểm của người tiếp nhận, nó thể hiện một thái độ vô tư mà từ trước đến nay người ta gọi là thẩm mĩ.
Một thuật ngữ như “văn chương” (belles-lettres) vẫn khiến người ta nghĩ đến hoạt động phi nghệ thuật (vẫn có những tác phẩm không hay). Cũng như đối với từ “beaux-arts” (mĩ thuật), việc người ta liên tưởng đến những ngành mĩ thuật vị lợi hay máy móc vẫn còn rất mạnh. Một khi mà quan niệm mới này được thông qua, tính từ “beau” (giống cái là belle có nghĩa là đẹp) trong từ “belles-lettres” và “beaux-arts” không còn cần thiết nữa, thuật ngữ trở nên thừa từ bởi vì nghệ thuật bây giờ được định nghĩa như cảm hứng dành cho cái đẹp. Những quyển sách cổ xưa về nghệ thuật chủ yếu được viết ra để chỉ dẫn, dành cho nhà thơ, họa sĩ hay nhạc sĩ. Từ đó, người ta chuyên việc mô tả quá trình nhận thức, phân tích về cách phán đoán sở thích, thông qua đó, người ta đánh giá giá trị thẫm mĩ.
phim Đấu Tranh Gia Tộc
Việc dạy văn học ở Pháp đã minh họa sự chuyển biến ấy với 100 năm chậm trễ, trong khi đến giữa thế kỉ XIX, việc dạy học vẫn xuất phát từ việc dạy Tu từ học (On aprend comment écrire- Người ta dạy viết như thế nào), bắt đầu từ lúc này, người ta chuyển sang dạy theo quan điểm lịch sử văn học, tức là dạy “cách đọc” (On apprend comment lire. Người ta dạy đọc như thế nào).
Hậu quả tức thì: là bị cắt đứt với hoàn cảnh sáng tạo, nghệ thuật buộc phải tìm nơi tiêu thụ. Để trưng bày tranh, người ta xây dựng những phòng triễn lãm, xưởng vẽ, các viện bảo tàng: viện bảo tàng Anh ra đời năm 1733, bảo tàng Uffixi vàVaticanvào năm 1759, bảo tàng Louvre năm 1791.
Lúc đầu, việc tập hợp các bức tranh vào một nơi duy nhất nhằm đảm nhận các nhiệm vụ khác nhau trong nhà thờ, cung điện, nhà của tư nhân; ngày nay, công việc ấy chỉ nhằm một mục đích duy nhất: để ngắm nhìn và đánh giá giá trị thẩm mĩ của chúng.
Thứ bậc của ý nghĩa và giá trị đã bị đảo lộn: điều mà trước kia mong muốn là giá trị biểu diễn, nay trở thành điều cần thiết, còn điều mà trước kia cần thiết là giá trị thần học và huyền thoại, nay lại là điều không bắt buộc. Phòng triển lãm của viện bảo tàng hay xưởng vẽ trở thành nơi biến một vật bất kì thành một tác phẩm nghệ thuật: để cổ vũ việc nhận thức thẩm mĩ, chỉ cần vật này được trưng bày ở đó. Mối liên hệ tự động giữa nơi trưng bày với kiểu nhận thức như thế này dĩ nhiên là rất cần thiết, kể từ khi Marcel Duchamp đã đặt bức vẽ Chỗ đi tiểu (Urinoir…) nổi tiếng của mình tại một góc dành cho các tác phẩm nghệ thuật: chỉ với vị trí trưng bày của mình, nó đã trở thành một tác phẩm nghệ thuật cho dù quá trình sáng tạo ra nó, chẳng giống gì với quá trình tạo ra một bức điêu khắc, hay một bức tranh.
Nói tóm lại, cả hai phong trào này đã làm thay đổi quan niệm về nghệ thuật, việc đồng hóa người sáng tạo với Chúa – người đã sáng tạo ra vũ trụ và việc đồng hóa tác phẩm với một vật đơn thuần chỉ để ngắm nhìn, đã minh họa cho việc thế tục hóa thế giới dần dần ở châu Âu, nhưng cũng góp phần kéo theo sự thiêng liêng hoá mớicủa nghệ thuật. Lúc ấy, nghệ thuật hoá thân thành sự tự do (liberté), quyền tối cao (souveraineté), sự tự tại (autosuffisance), sự siêu việt (transcendance) của người sáng tạo so với thế giới. Phong trào này củng cố cho phong trào kia: trên phương diện chức năng, cái đẹp được định nghĩa như một thứ không có mục đích ứng dụng, trên phương diện cấu trúc, cái đẹp được tổ chức với sự chặt chẽ của một vũ trụ. Việc thiếu mục đích bên ngoài được bù lại bằng vô số những mục đích bên trong, tức là mối quan hệ giữa các bộ phận và các yếu tố của tác phẩm. Nhờ vào nghệ thuật, cá nhân con người có thể đạt đến sự tuyệt đối.
Lý luận văn học Việt Nam thế kỉ XX là một bộ phận không tách rời của văn học dân tộc, đồng thời cũng không tách rời với các trào lưu lý luận văn học thế giới, bởi quá trình hình thành, phát triển của nó gắn liền với quá trình tự ý thức của văn học trong suốt thế kỉ qua và đang bước vào thế kỉ XXI. Đánh giá quá trình lý luận văn học ấy như thế nào, theo phương pháp nào, tiêu chí nào là một vấn đề có ý nghĩa bức thiết. Lý luận ấy phát triển tất nhiên không phải chỉ do bản thân nó và nhu cầu của văn học dân tộc mà còn do lịch sử xã hội, quan hệ giao lưu quốc tế, bởi vì đó là những nhân tố quy định sự lựa chọn, phương hướng, tính chất, hình thái của lý luận văn học ấy. Từ trước đến nay chúng ta nhìn nhận sự phát triển của lý luận văn học theo quan điểm ý thức hệ mác xít, coi đó là quá trình truyền bá lý luận văn học mác xít vào Việt Nam, là quá trình đánh dẹp các lý thuyết phong kiến, tư sản, xét lại… Tiến trình lý luận coi như sự phản ánh quá trình đấu tranh giai cấp, đấu tranh ý thức hệ giữa lý luận văn học mác xít vơi lý luận văn học phong kiến, tư sản để tiến lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với các tiêu chí như thực tiễn cách mạng, tính chiến đấu, tính giai cấp, tính biện chứng, tính tiên phong, quan hệ địch – ta, bức tranh lí luận không chỉ mang đậm màu sắc đấu tranh chính trị, mà còn có thể có nguy cơ khái quát thiên lệch, đem cái đặc thù làm cái phổ biến hoặc đem cái chính thống, quan phương làm cái phổ biến. Chẳng hạn, nếu xem lịch sử lý luận văn học Việt Nam thế kỉ XX là lịch sử truyền bá lý luận mác xít, là lịch sử khẳng định vị trí độc tôn của nó và là lịch sử đấu tranh, phê phán tất cả các thứ lý luận văn học phi mác xít, thì sẽ làm nghèo, làm méo bức tranh phát triển thực tế của lý luận văn học. Đó là tình hình của một số cuốn lịch sử lý luận văn học trước đây thiên về miêu tả các cuộc đấu tranh tư tưởng trong văn nghệ. Các tiêu chí ấy cũng có một số cơ sở khách quan nhất định, nhưng đồng thời cũng đều tỏ ra hạn hẹp, bởi vì thực tiễn cách mạng, suy cho cùng chỉ là vận động của từng thời kì trong thời gian, không gian cụ thể, chưa phải là tiêu chí phổ quát, có tính lâu dài để nhìn nhận mọi hiện tượng lý luận. Lý luận văn học mác xít, suy cho cùng cũng chỉ là một trường phái lý luận hình thành từ thế kỉ XIX và được phát triển vào thế kỉ XX, chủ yếu là ở các nước xã hội chủ nghĩa, nó không thể là toàn bộ văn hoá nhân loại, mà lý luận văn học Việt Nam muốn phát triển, phong phú, thì không thể chỉ uống nước từ một nguồn[1]. Vì thế ngày nay chúng ta cần nhìn lại quá trình phát triển nói trên theo tiêu chí tính hiện đại, bởi đó là đặc điểm chung của quá trình vận động văn hoá, văn nghệ của nhân loại bắt đầu từ thời Phục Hưng ỏ phương Tây và tiếp tục cho đến ngày nay trên phạm vi toàn thế giới. Không một học thuyết nào lại không cần được đánh giá từ tính hiện đại.
phim Đấu Tranh Gia Tộc
Thật vậy, xét trên phạm vi thế giới, kể từ sau thời đại Phục Hưng, đặc biệt từ thế kỉ XVIII, sau các cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh, Pháp , Mĩ, cuộc cách mạng tư sản và cách mạng vô sản Nga, cuộc vận động Duy Tân ở Nhật Bản, Trung Hoa, Việt Nam, dù điều kiện xã hội, chế độ chính trị có khác nhau, nhưng không đâu là không hướng theo khuynh hướng hiện đại. Xét riêng trong thế kỉ XX ở Việt Nam, các cuộc vận động của Phan Bội Châu, của Đông Kinh nghĩa thục, của cụ Phan Châu Trinh, của Việt Nam Quốc Dân Đảng, của Đảng Cộng sản Việt Nam, tuy khác nhau rất lớn về tính chất nhưng đều nằm trong phạm trù chung của tính hiện đại. Tính hiện đại sẽ là một mặt bằng mới để đánh giá mọi cống hiến của mọi tâng lớp người Việt Nam cho sự phát triển văn hoá, văn học dân tộc, trong đó có lý luận văn học.
Tính hiện đại là một phạm trù nhiều nghĩa[2], có mâu thuẫn và có nội hàm diển biến theo lịch sử. Tính hiện đại của xã hội như là trạng thái chuyển biến về hình thái, từ xã hội trung đại sang hiện đại, từ tôn giáo sang thế tục, từ quân quyền sang dân chủ, tự do; từ cát cứ sang quốc gia dân tộc, từ dân tộc biệt lập sang giao lưu quốc tế. Tính hiện đại có tính chất toàn cầu hoá. Tính hiện đại như một phạm trù văn hoá bao gồm các thuộc tính như sùng thượng lí tính, khoa học, giải phóng cái tôi, đề cao tính chủ thể. Tính hiện đại của văn học nóí chung bao gồm sự đề cao tính thẩm mĩ, phân biệt với tính giáo huấn, tính cộng cụ; đề cao tính tự chủ phân biệt với tính phụ thuộc; giải phóng cá nhân với cái tôi chủ thể; đề cao nhận thức, sáng tạo, phân biệt với việc sử dụng các hình thức có sẵn. Cần phân biệt tinh hiện đại như là thuộc tính của trào lưu văn học hiện đại chủ nghĩa[3]với tính hiện đại về văn học nói chung. Chủ nghĩa hiện đại bao gồm các thuộc tính như tính hướng nội, tính phi lí, tính phi ngã, đề cao vô thức. Trong lý luận văn học, tính hiện đại vừa bao hàm các nội dung của một phạm trù văn hoá vừa bao hàm các nội dung thuộc phạm trù văn học[4]. Bước phát triển mới của tính hiện đại là hậu hiện đại, một sự hoài nghi, phản ứng lại đối với các quan niệm độc tôn, tuyệt đối hoá các nguyên lý văn hoá, tư tưởng thành các “đại tự sự” đã nêu ra các nguyên lý mới như phi lý tính, giải cấu trúc, vô trung tâm, phi bản chất chủ nghĩa…Các nguyên lý này cũng có thể được xem như những công cụ để “đặt lại vấn đề”trong phạm vi tính hiện đại. Phạm trù tính hiện đại cũng biến đổi sâu sắc trong tiến trình lịch sử. Chẳng hạn về nội hàm lý tính, ở thế kỉ XVII người ta thiên về khẳng định tư duy suy lý, sang thế kỉ XVIII người ta khẳng định kinh nghiệm, từ kinh nghiệm mà đúc rút ra cái phổ quát, đối với Kant lý tính có nghĩa là có tinh thần tự phê phán. Hiểu như vậy để trong quá trình vận dụng khái niệm tính hiện đại chúng ta cần tính đến sự diễn tiến lịch sử của nó. Trong thế kỉ XX tính hiện đại của lý luận văn học cũng có một quá trình vận động tự phát triển, tự phủ định. Chẳng hạn một thời đề cao nguyên lý phản ánh, nhận thức luận trong văn học thì nay có nhu cầu đột phá nhận thức luận và phản ánh luận. Hoặc như một thời văn học bị chính trị hoá thì nay có xu hương vượt qua chính trị hoá; một thời xem văn học chỉ là công cụ, vũ khí của chính trị, thì nay có xu hướng khẳng định tính tự chủ, thẩm mĩ của văn học và tính độc lập của khoa lý luận văn học. Những đổi thay đó đều là biểu hiện sự vận động của tính hiện đại.
Lý luận văn học Việt Nam thế kỉ XX thuộc phạm trù hiện đại, đó là điều mọi người công nhận. Song tính hiện đại của lý luận văn học ở đây bao gồm những nội dung gì thì vấn đề hình như chưa được quan tâm đúng mức. Trước hết, tính hiện đại bắt nguồn từ quá trình thoát khỏi phạm vi khu vực mà tham gia vào phạm vi thế giới. Toàn bộ sinh hoạt từ dòi sống vật chất đến tinh thần đều đi theo hướng thế giới hóa. Không chỉ Việt Nam mà toàn bộ các nước Đông Á đều đi theo quỹ đạo đó. Theo quỹ đạo đó Việt Nam thoát khỏi ảnh hưởng Trung Quốc như đã có vào thời trung đại để gắn với các quá trình thế giới. Thứ hai, xét riêng về lý luận văn học là bộ môn khoa học, nó là hệ thống các khái niệm được chứng minh bằng lôgích của khoa học văn học, chứ không phải là những phát biểu nhiều khi sâu sắc nhưng có tính kinh nghiệm như các nhà bình văn ngày xưa, cũng không phải là những quy định về chức năng từ phía chính trị, đạo đức, giáo dục. Thứ ba, trong điều kiện vấn đề độc lập dân tộc có ý nghĩa hàng đầu thì tinh thần quốc gia dân tộc phải là một nội dung của tính hiện đại, bởi nó chống tư tưởng quốc gia quân chủ, xây dựng quốc gia độc lập, dân chủ (bao gồm quan niệm của Đảng cộng sản là xây dựng quốc gia dân chủ mới (“Đề cương văn hóa” năm 1943 gọi là “tân dân chủ”theo quan niệm của Mao Trạch Đông), tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tuy duới thời trung đại văn học dân tộc đã được ý thức, song phải đến thế kỉ XX chúng ta mới có ý niệm về văn học dân tộc Việt Nam, về lịch sử văn học Việt Nam, mới quan tâm sưu tầm, phiên dịch, nghiên cứu, phân loại, phân kì, mới có các vấn đề như văn học chữ Hán có phải là bộ phận của văn học Việt Nam hay không, tính chất của văn học Việt Nam qua các thời kì, vấn đề tính dân tộc, bản sắc văn hoá dân tộc của văn học…
phim Đấu Tranh Gia Tộc
Nội dung thứ tư là tính tự chủ, thẩm mĩ của văn học. Thời cổ đại, trung đại văn học chủ yếu được xem là công cụ giáo huấn đạo đức, “văn dĩ tải đạo”. Vấn đề đặc trưng văn học nghệ thuật trên thế giới mới bắt đầu được xem xét từ Kant, Schiller. Khái niệm văn học như một nghệ thuật ngôn từ mang bản chất thẩm mĩ, ở phương Tây, theo Wellek, Worren mới có từ 200 năm nay. Đi tìm đặc trưng văn học là một nội dung tính hiện đại của lý luận văn học, các thời đại trước người ta chưa ý thức rõ rệt vấn đề này. Gắn với vấn đề đặc trưng văn học là các vấn đề về các thuộc tính thẩm mĩ của văn học, ngôn từ văn học, tư duy văn học, hình thức văn học, các thể loại văn học, lý luận sáng tác, tiếp nhận văn học, điển hình hoá, các trào lưu nghệ thuật, phê bình văn học…
Nội dung thứ năm là nội dung văn học tức là con người, tư tưởng, tình cảm trong văn học. Văn học hiện đại, tính từ thời Phục Hưng, đặc biệt từ thế kỉ XVIII, đã làm thay đổi hẳn nội dung của văn học. Gắn liền với vấn đề này là vấn đề con người cá nhân, cá tính, con người cảm tính, tự nhiên, bản năng, vô thức, tính chủ thể, tính sáng tạo trong văn học với các cách thức, phương pháp biểu hiện con người khác nhau.
Nội dung thứ sáu là các trường phái khoa học về văn học. Bản thân khoa nghiên cứu văn học là sản phẩm của thời hiện đại. Theo G. Pospelov, P. Nicolaev khoa văn học như là một khoa học mới hình thành từ đầu thế kỉ XVIII, do sự phân hoá tri thức thành triết học, đạo đức, khoa học, mĩ học. Nhưng phải đến cuối thế kỉ XIX, đặc biệt sang đầu thế kỉ XX mới xuất hiện các trào lưu nghiên cứu văn học khác nhau: văn học so sánh, văn hoá lịch sử, xã hội học, nghiên cứu tiểu sử, phân tâm học, tâm phân học, cấu trúc luận, kí hiệu học, thần thoại học, văn hoá học, giải cấu trúc…Sự tiếp thu, vận dụng, phát triển các phương pháp thể hiện tính hiện đại của lý luận văn học.
phim Đấu Tranh Gia Tộc
Đó là các nội dung chủ yêú của tính hiện đại trong lĩnh vực lý luận văn học. Tất nhiên tính hiện đại trước hết thể hiện ở tinh thần hiện đại. Đó là ý thức phản truyền thống (Baudrillard), chống quy phạm (Habermas), tinh thần hoài nghi (A. Giddens), tinh thần lý tính (logich và lịch sử), ý thức thế tục, ý thức cá nhân, cá tính…
Nhìn nhận lý luận văn học Việt Nam thế kỉ XX từ phạm trù tính hiện đại chúng ta sẽ thấy một bức tranh nhiều chiều, phong phú, đa dạng về quá trình hình thành, phát triển và hiện đại hoá lý luận, sẽ nhận ra những phần chân lí mà trước đây, theo tiêu chí của lý luận văn học cách mạng chúng ta cho là “có vấn đề”, không thể bỏ qua, thì nay lại có điều kiện phân tích những mặt mâu thuẩn trong các quan điểm văn nghệ cụ thể. Chẳng hạn các tác giả như Kant, Hegel, Nietzsche, Gide, Freud ở nước ngoài hoặc Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Hoài Thanh, Trương Tửu…ở trong nước có vai trò đáng kể trong việc phát triển tư tưởng lý luận văn học và mỹ học hiện đại, mà nếu chỉ xét theo quan điểm ý thức hệ thì có khi họ chỉ là duy tâm, siêu hình và tư sản, thậm chí là đồi truỵ, phản động, chỉ đáng đem ra phê phán.
Trong nửa đầu thế kỉ XX ở Việt Nam, trong điều kiện thuộc địa, mặc dù ý thức văn học còn khá hỗn độn, mơ hồ, pha tạp nhưng tính hiện đại đã xuất hiện trong trạng thái mâu thuẫn, không đồng bộ ở các nhóm phái và cá nhân khác nhau. Trong điều kiện lịch sử lúc ấy nét nổi bật là hình thành tinh thần dân tộc, ý thức quốc gia dân tộc trong đa số trí thức Việt Nam. Các phong trào yêu nước đầu thế kỉ dấy lên sau thất bại của phong trào Cần vương đã hun đúc tinh thần dân tộc như một một biểu hiện của tính hiện đại. Tính dân tộc này khác về chất so với ý thức dân tộc thời quân chủ. Các hoạt động sưu tầm, phiên âm, phiên dịch về văn học cổ nước nhà, kỉ niệm Nguyễn Du và Truyện Kiều, việc trình bày các thể loại văn học cổ, việc soạn văn học sử Việt Nam… đều mang tinh thần và hình thái hiện đại, chưa từng có trong truyền thống văn học phong kiến nhằm khẳng định sự tồn tại của một quốc gia, dân tộc, tiếng nói và văn hoá dân tộc với tình cảm mảnh liệt, thiêng liêng.
phim Đấu Tranh Gia Tộc
Việc giới thiệu, tiếp thu, vận dụng các lý thuyết văn học phương Tây là một bộ phận lớn, thậm chí là cơ bản của lý luận văn học Việt Nam. Có thể nói suốt cả thế kỉ XX người Việt Nam, mặc dù gặp nhiều hạn chế và trở ngại, song vẫn nổ lực theo dõi, giới thiệu và phần nào vận dụng các lý thuyết hiện đại vào đời sống văn học của mình. Lý luận mác xít đã có truyền thống không chỉ ở Hải Triều, Đặng Thai Mai, mà còn có ở Trương Tửu, Lương Đức Thiệp. Lý luận phân tâm học bắt đầu từ Nguyễn Văn Hanh, Trương Tửu trước 1945 đến Đàm Quang Thiện trước năm1975, rồi Đỗ Lai Thuý những năm gần đây.
Việc giới thiệu các tư tưởng và văn học phương Tây, giới thiệu văn học cổ Việt Nam, nghiên cứu Truyện Kiều, cổ xuý văn xuôi quốc ngữ ở tạp chí Nam Phong là đi theo tiếng gọi của tính hiện đại. Quan niệm văn học của Phạm Quỳnh, Phạm Duy Tốn chủ yếu thể hiện ở tinh thần thực dụng nhưng lại mâu thuẫn với tính thẩm mỹ của văn học, gây nên sự phê phán của Thiếu Sơn. Cuộc xung đột giữa cụ nghè Ngô Đức Kế với hoạt động kỉ niệm, đề cao Truyện Kiều thể hiện sự mâu thuẫn giữa hai khuynh hướng về ý thức dân tộc. Ở Tản Đà tính hiện đại thể hiện ở ý thức tự biểu hiện, giải phóng cá tính.
Bước sang giai đoạn 1932 – 1945 tính hiện đại được phát triển khá nhiều mặt: văn học và lý luận phê bình hầu như đi song song với nhau. Ý thức thẩm mỹ và tính tự chủ của văn học thể hiện đầu tiên ở Thiếu Sơn và Hoài Thanh là biểu hiện nổi bật của tính hiện đại trong lỹ luận văn học. Quan niệm này còn thể hiện ở nhiều tác phẩm của Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử và các nhà thơ mới khác. Cuộc bút chiến giữa hai quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật” và “nghệ thuật vị nhân sinh” thường được miêu tả như một cuộc đấu tranh giữa quan niệm văn học duy tâm, tư sản và quan niệm văn học duy vật, vô sản và cách mạng đã làm giảm mất ý nghĩa hiện đại trong ý kiến của Hoài Thanh[5]. Cuộc bút chiến ấy còn tiếp tục trong sách Văn học khái luận của Đặng Thai Mai và còn kéo dài đến cuộc tranh luận văn nghệ ở Việt Bắc qua vấn đề văn nghệ và tuyên truyền, rồi tiếp tục qua vấn đề văn nghệ và chính trị trong sự kiện “Nhân văn – Giai phẩm”, tuy khẳng định khuynh hướng chính trị thống nhất của văn học, nhưng lại làm giảm tính hiện đại về mặt nghệ thuật. Trên thế giới quan niệm văn học là công cụ của tư tưởng, đạo đức, giáo hoá, nhận thức đã có lâu đời từ Platon, Aristote và ăn sâu vào trong tiềm thức mỗi người trong mọi thời đại, cho nên trở thành đương nhiên. Vấn đề tính tự chủ của văn học mới được ý thức và được nghiên cứu từ thế kỉ XVIII. Kant, Schiller nghiên cứu trên bình diện mỹ học, Nietzsche nghiên cứu trên bình diện triết học sự sống, trường phái Franfurt nghiên cứu trên bình diện xã hội học, Heidegger nghiên cứu trên bình diện ngôn ngữ. Một vấn đề được nghiên cứu dai dẳng, liên tục, nhiều mặt như thế không thể là một vấn đề vô nghĩa. Có thể vẫn còn những quan điểm khác nhau, song không nên giản đơn quy vấn đề tự chủ của văn học thành một vấn đề duy tâm để mà phủ nhận.
phim Đấu Tranh Gia Tộc
Vấn đề tính tự chủ của văn học còn gắn với một vấn đề khác không kém hóc búa là vấn đề mối quan hệ văn học và chính trị. Văn học có phải là vũ khí của chính trị, là phương tiện của chính trị với tư cách là một hình thái ý thức xã hội hay không? Quan niệm phổ biến ngày nay ở phuơng Tây là xem văn học tự thân như một hình thái ý thức xã hội, văn học có ý thức xã hội của nó. M. Bakhtin cũng xem văn học là kí hiệu của ý thức hệ. Quan niệm đó không hạn chế tự do của văn học, không làm mất tính tự chủ của nó và không gây phản ứng trong giới học thuật. Trái lại ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây và ngày nay quan niệm xem văn nghệ là hình thái ý thức xã hội lại gây nhiều tranh cãi. Đó là vì nhu cầu biến văn học thành công cụ, vũ khí để truyền bá cho một ý thức xã hội của nhà nước được quy định sẵn, một thế giới quan định sẵn đã làm mất đi cái ý thức xã hội vốn có của văn học và cũng làm mất đi tự do của sáng tạo. Do đó vấn đề không phải là văn học có hay không có tính chất của hình thái ý thức xã hội, mà là quan niệm về tính chất hình thái ý thức xã hội ấy như thế nào.
Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc là sứ mạng lịch sử của dân tộc Việt Nam thế kỉ XX. Sự chuyển giao lá cờ cứu nước từ các nhà văn thân sang các nhà cách mạng tư sản, rồi cuối cùng lá cờ ấy được trao vào tay các nhà cách mạng vô sản mà đảng Cộng sản Việt Nam là đại diện đã làm cho quan niệm mác xít thắng thế, trở thành tư tưởng chủ đạo, độc tôn và đã đưa văn học cùng lí luận phát triển theo hướng tính hiện đại của lí luận văn học mác xít.
Lí luận văn học mác xít Việt Nam hình thành dần dần trong quá trình phát triển. Từ những ý kiến ban đầu của Hải Triều đến Đề cương văn hoá Việt Nam năm 1943, rồi các bài báo giải thích, bản báo cáo của Trường Chinh năm 1948 quan niệm được rõ dần. Đó là quan niệm xem văn học là một hình thái ý thức hệ thuộc thượng tầng kiến trúc, là vũ khí đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và tiến bộ xã hội theo quan điểm của Đảng cộng sản. Quan niệm này lúc đầu được phát biểu tóm tắt, rõ ràng chịu ảnh hưởng trực tiếp của bài báo Tân dân chủ chủ nghĩa luận của Mao Trạch Đông phát biểu vào tháng 1-1940, bởi vì “tân dân chủ” là thuật ngữ do Mao Trạch Đông sáng tạo, không có trong kho tàng kinh điển Mác Lênin. Đề cương là bản tuyên ngôn đầu tiên về độc quyền lãnh đạo cách mạng văn hoá Việt Nam của Đảng Cộng sản Việt Nam, là tuyên ngôn về vị trí độc tôn của chủ nghĩa Mác trong văn hoá Việt Nam. Đề cương nêu nhiệm vụ trước mắt: Chống văn hoá phát xít, phong kiến, thoái bộ, nô dịch, văn hoá ngu dân và phỉnh dân. Phát huy văn hoá tân dân chủ Đông Dương. Đề cương nêu nhiệm vụ phải làm: a) “Tranh đấu về học thuyết, tư tưởng, làm cho thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thắng”. b) “Tranh đấu về tông phái, làm cho xu hướng tả thực xã hội chủ nghĩa thắng”. c) “Tranh đấu về tiếng nói, chữ viết”. Cốt lõi của Đề cương là hai điểm a và b. Đề cương nêu rõ nguy cơ văn hoá Việt Nam dưới ách phát xít Nhật, Pháp và nêu ba nguyên tắc vận động nổi tiếng: dân tộc hoá, đại chúng hoá, khoa học hoá, (cũng là khẩu hiệu của Mao!) sau đó đổi lại: dân tộc hoá, khoa học hoá, đại chúng hoá. Đó là các nguyên tắc mang tính hiện đại trong quan niệm của Đảng cộng sản.
Dần dần nội dung đề cương được giải thích cụ thể và có phần mềm mại nhưng cái lõi cốt thì không thay đổi. Văn bản Mấy nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hoá mới Việt Nam lúc này ( viết ngày 22-9-1944, đăng tạp chí Tiên Phong số 2 ngày 1-12-1946) nêu ba căn bệnh của văn hoá Việt Nam và đánh giá văn hoá ấy rất thấp, không thoả đáng đối với văn nghệ lúc ấy, nếu như không nói là sai hẳn: “Văn nghệ hợp pháp hầu hết (tôi nhấn mạnh – TĐS) bội phản tinh thần dân tộc độc lập. Hình thức văn nghệ hết theo lối Tống Nho[…], lại học đòi lối Pháp một cách lố lăng”. Đánh giá một số hiện tượng cụ thể như Xuân thu nhã tập, tạp chí Tri Tân, tạp chí Thanh Nghị hoàn toàn không đúng. Cách đánh giá mang đậm tính áp đặt của ý thức hệ và ít sát đối tượng ấy sẽ còn tiếp tục dài dài trong các thời kì sau.
Xem văn học như hình thái ý thức xã hội là một quan niệm hiện đại, xuất phát từ một học thuyết của khoa chính trị kinh tế học, nhưng xem văn học là công cụ của đấu tranh giai cấp, giải phóng dân tộc, một vũ khí tuyên tuyền cách mạng, thì tuy đáp ứng nhu cầu thực tế, song lại là sự tiếp tục quan niệm “văn dĩ tải đạo” của truyền thống nho giáo. Quan niệm đó hàm chứa một mâu thuẫn chưa được giải quyết về chức năng xã hội và tính tự chủ của văn học, gieo cái mầm cho nhiếu cuộc tranh luận về văn nghệ trong suốt trăm năm.
Lý luận về nội dung văn học xuất phát từ lí thuyết hình thái ý thức xã hội chủ đạo là phản ánh cái hiện thực phù hợp với hệ tư tưởng của Đảng. Tư tưởng ấy nếu trong thời kì chiến tranh giải phóng dân tộc còn có khả năng phát huy tác dụng thì đến sau chiến tranh trở thành trở ngại cho sự phát triển của văn học mà đến thời “Đổi mới” đã được hoá giải bằng khẩu hiệu “cởi trói” do ông Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh nêu ra.
phim Đấu Tranh Gia Tộc
Cuộc “tranh đấu về học thuyết” và “tranh đấu về tông phái” được đề xuất từ 1943 và được thực hiện từ những năm 1948 -1949 trở đi ở vùng tự do và ở miền Bắc Việt Nam sau 1954 đã làm cho việc tiếp nhận các trường phái lý luận văn học, mỹ học hiện đại trên thế giới gặp trở ngại. Các cuộc đấu tranh về ý thức hệ chống các khuynh hướng lý luận và sáng tác tư sản và “xét lại” đã tạo ra những công trình khoa học giả. Chẳng hạn, công trình Phê phán chủ nghĩa xét lại hiện đại trong văn nghệ của GS. Hoàng Xuân Nhị hay công trình Phê phán chủ nghĩa hiện sinh của GS. Đỗ Đức Hiểu, không có sức thuyết phục ngay cả đối với chính tác giả của nó. Có một thời chúng ta hầu như cấm tiếp nhận, vận dụng một số trường phái lí luận phương Tây, như chủ nghĩa cấu trúc trong nghiên cứu văn học. Một số công trình của Phan Ngọc nghiên cứu về thơ Đường, về Truyện Kiều theo lối cấu trúc chủ nghĩa đã không thể công bố, phải sau những năm 80 mới được công bố dưới tên gọi “thao tác luận”, được giới học thuật đón nhận. Điều này nói lên rằng tính hiện đại không thể bị ngăn chặn bởi một chủ trương nào. Ở miền Nam trước năm 1975 việc dịch thuật, giới thiệu, tiếp nhận các lý thuyết văn học hiện đại phương Tây đuợc tiến hành tự nhiên hơn. Với tâm thức Việt Nam là hỗn dung văn hoá, là không từ chối tiếp nhận các yếu tố ngoại sinh. ở các vùng địch chiếm và trong cả nước sau 1975, sự tiếp nhận các lý luận văn học phương Tây dần dần được mở rộng mặc dầu còn chậm chạp. Chậm chạp vì năng lực nội sinh yếu và do một số nhân tố khác nữa. Tuy nhiên sự tiếp nhận lúc này mang ý vị tính hiện đại, bởi vì do nhu cầu đột phá truyền thống. Tính hậu hiện đại đã xuất hiện trong sáng tác, song tính hậu hiện đại trong lý luận văn học thì hầu như chưa thấy rõ. Có hai hình thái tiếp nhận lý luận nước ngoài. Tiếp nhận cưỡng bức và tiếp nhận tự nguyện. Trong các thời kì người Hán đô hộ trước đây, sự cưỡng bức tiếp nhận văn hoá Hán xem ra chẳng có mấy kết quả. Nhưng khi đất nước độc lập vào thế kỉ X sự tiếp nhận tự nguyện đã đem lại sự phồn vinh cho văn hoá văn học Việt Nam. Chỉ tiếp nhận tự nguyện mới có thể đem lại những giá trị đích thực cho văn hoá. Trong cách tiếp nhận như một phương thức nội tại của ảnh hưởng có thể phân biệt các hình thái lai căng, rập khuôn, sáng tạo xét theo hiệu quả tiếp nhận. Và truyền thống “dung hoà tôn giáo” có từ đời Trần phải chăng đang phát huy tạo ra những sự dung hoà mới về các thứ lý luận. Tính hỗn dung cũng không tạo ra lối tiếp thu từng hệ thống riêng biệt đến mức phát triển, đột phá hệ thống ấy. Người Việt Nam đã có kinh nghiệm đối thoại với các tư tưởng ngoại sinh hàng ngàn năm nay, biết chọn cái gì vừa sức, tổng hợp lại, vận dụng vào Việt Nam, làm thành “dị bản Việt Nam”. Với truyền thống ấy, tính hiện đại của lý luận nói chung, kể cả triết học, từ Nho học ngày xưa đến triết học mác xít ngày nay, và lý luận văn học nói riêng của Việt Nam thường bị chiết khấu. Và do đó ít có khả năng cạnh tranh với lý luận nước ngoài. Ở đây đến lượt mình, tính hiện đại ở Việt Nam bị giới hạn bởi truyền thống, và do bị giới hạn bởi truyền thống thì đó là một tính hiện đại yếu. Chừng nào nhu cầu đột phá truyền thống thắng thế thì Việt Nam mới thật sự có tính hiện đại, bởi lúc đó mới thật sự có linh hồn của tính hiện đại.
phim Đấu Tranh Gia Tộc
Nhìn lại lý luận văn học Việt Nam thế kỉ XX theo tiêu chí tính hiện đại nghĩa là khắc phục cái nhìn theo tiêu chí chính trị thuần tuý, hẹp hòi, mà phải nhìn trong viễn cảnh phát triển lý luận của thòi kì hội nhập, toàn cầu hoá tri thức. Nó không chỉ cung cấp một mặt bằng mới để đánh giá các thành tựu và nhược điểm của chuyên ngành trong thời đại giao lưu, hội nhập, mà còn cho phép so sánh sự phát triển lý luận văn học Việt Nam trong tương quan với lý luận văn học thế giới nói chung và với một số nước phát triển trong lĩnh vực này nói riêng. Những nhận thức ấy sẽ góp phần định hướng con đường tiếp theo của lý luận văn học Việt Nam trong thế kỉ mới.