Thursday, May 23, 2013

Phim Huyền Thoại Vikings

Phim Huyền Thoại Vikings
Phim Huyền Thoại Vikings







Phim Huyền Thoại Vikings



INhà Tế Hanh ở bên Nguyễn Thượng Hiền mà cơ quan tôi ở ngay bên Nguyễn Du, từ nơi nọ qua nơi kia, đi bộ chỉ mất dăm bảy phút. Bởi vậy gần như sáng nào, từ bên nhà mình, Tế Hanh cũng rẽ qua chỗ chúng tôi một lúc. Mà cái cách đến chơi của ông cũng lạ. Có khi, anh em đang họp đông đủ, Tế Hanh chỉ vẫy một người nào đó ra thầm thì một câu rồi đi. Tôi hỏi người bạn kia: “Có việc gì quan trọng thế?”, “Cũng chẳng có gì đặc biệt cả, nhưng phải hỏi cho được một người cụ mới yên tâm”. Lại như khi chúng tôi đang ngồi chả làm gì, chỉ chờ người đến góp chuyện. Được một bậc đàn anh như Tế Hanh cùng tham gia thì hay quá rồi còn gì! Nhưng trái với sự chờ đón của mọi người, nét mặt Tế Hanh vẫn ra chiều ngơ ngác, chả ra vẻ hứng thú đón chuyện mọi người, mà cũng chả hứa hẹn rằng có một câu chuyện rất hay, sắp kể. Hình như con người này không có thói quen phải đối diện với cả một đám đông cử toạ. Có mặt giữa mọi người mà ông vẫn mải mê chạy theo những ý nghĩ của mình, đầu óc để tận đâu đâu, chỉ thỉnh thoảng chợt nhớ ra một điều gì đó ông vỗ vai thầm thì vào tai người ngồi cạnh, rồi lại ngơ ngác suy nghĩ tiếp, hoặc xách túi lẳng lặng chia tay anh em trước. Chắc chắn đó không phải là người của những cuộc đối thoại say sưa! Mà trước tiên, đó càng không phải là người của những ý tưởng nồng nhiệt, nói ra có thể làm đảo lộn đầu óc, hoặc gây ấn tượng thật đậm với những người chung quanh! Thành thử ngay khi Tế Hanh ngồi giữa đám đông, người ta vẫn thấy ở ông nhu cầu trao đổi trò chuyện một hai câu với một người nào đó thật ra là một biến tướng của nhu cầu độc thoại, kết quả sự đắm chìm triền miên của ông vào bản thân mình ngay giữa cuộc sống hàng ngày. Có điều, khi nhớ lại những nhận xét bất chợt của Tế Hanh – lại được ông nói ra một cách khó khăn, nói kiểu nhát gừng, hoặc lụn vụn dang dở – chúng tôi vẫn cảm thấy thường khi đấy là những ý kiến độc đáo, của một người có gu, tinh tế và đáng ghi nhớ nếu không hơn thì cũng không kém các ý kiến được nói theo kiểu hùng biện và đầy sức thuyết phục. Ở con người này, sự đơn điệu tẻ nhạt và sự sâu sắc đôi khi lẫn vào nhau, tồn tại cạnh nhau, xuất hiện cùng nhau tới mức dễ lầm lẫn, song khi nghĩ lại, người ta vẫn thấy có sự phân biệt rành rẽ.
Phim Huyền Thoại Vikings
Từ lối nói chuyện hàng ngày như thế này, tôi nghĩ đến cả đời thơ đời sáng tác của Tế Hanh. Trong thơ Việt Nam tiền chiến, ông chưa bao giờ tạo được một sự hấp dẫn lạ lùng như Hàn Mặc Tử hoặc Nguyễn Bính, cũng không có lúc nào làm chủ thi đàn như Thế Lữ hoặc Xuân Diệu. Nhưng ông vẫn có chỗ của mình. Tập Nghẹn ngào từng được giải thưởng Tự Lực văn đoàn. Từ sau 1945, ông vẫn làm thơ đều đều, những tập thơ mỏng mảnh, giọng thơ không có gì bốc lên nồng nhiệt, nhưng được cái tình cảm hồn nhiên, và tập nào cũng có một ít bài đáng nhớ, khiến cho ngay sau Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu người ta nghĩ ngay đến Tế Hanh. Tô Hoài có lần kể với tôi: Có một tay làm văn hoá khá lâu ở Đại sứ quán nọ mới hỏi thăm mình về một nhà thơ đáng yêu lắm mà hắn quên mất tên. “Ông ta là loại người như thế nào?” “Dáng đi chậm rãi, tay quờ quờ như là đang đi men tường thế này” “Thế thì ông Tế Hanh?” “À, phải rồi, Tế Hanh”. Cái hình ảnh người đi men tường nói ở đây, có lẽ không chỉ đúng với con người rù rì lần bước của một Tế Hanh ngoài đời, mà có lẽ, cả một Tế Hanh trong thơ. Tế Hanh thỉnh thoảng cũng có những lúc đi đến tận cùng mọi sự việc, những lúc bốc lên:
Phim Huyền Thoại Vikings
- Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng

- Cà phê chạy tới tương lai

- Nông trường ta rộng mênh mông

Trăng lên trăng lặn vẫn không ra ngoài

Nhưng thường trực hơn, và đúng chất Tế Hanh hơn là những nhẹ nhõm “nỗi vui nỗi khổ đều qua vội vàng”, những lơ mơ bất định “thân buông theo gió hồn theo mộng”, từ đó, là những lửng lơ, ngơ ngẩn, những hành động vu vơ, và những dừng lại bất chợt.

- Những ngày buồn nhớ lại thấy vui vui

Những ngày vui sao bỗng thấy ngùi ngùi

hoặc:

- Tôi đi để mặc cỏ may

Hai bên bờ biếc ghim dày quần tôi

- Dừng chân trước một quả đồi

Gỡ từng sợi cỏ, tôi ngồi nhìn thu

Chế Lan Viên, trong lời bạt viết cho Tuyển tập Tế Hanh (1987) từng nói tới cái tạng riêng, cái gu riêng nó là nét độc đáo của Tế Hanh bên cạnh các nhà thơ khác:
Phim Huyền Thoại Vikings
“Dù anh viết khá hay về biển, biển trong bão dữ, nghĩ đến anh tôi vẫn nghĩ đến cái êm đềm của những con sông. Chim anh viết hay, không phải chim hải âu mà là chim én. Anh có thể tả mùa hè rực rỡ nhưng hình như anh xúc động nhất mùa thu. Anh không tả giỏi mặt trời bằng tả vầng trăng (…) Mặt trời của anh khi nào chói quá thì anh kìm nó lại bằng một dòng sông hay những bóng cây xanh. Và cây xanh thì có lẽ anh yêu nó hơn, khi ở trong vườn (…) hơn là ở những khu rừng (…) Nếu vào trong khu vườn, Xuân Diệu sẽ ngoạm vào cả các trái hồng lẫn các trái xanh, Huy Cận lắng nghe chất nhựa trên cành, người nào đó hì hục tìm thơ trong bộ rễ âm thầm, còn với Hanh thì màu xanh của lá cũng đủ cho anh hạnh phúc”.

Ở đây không phải vấn đề tính cân tính lạng khen chê thuần túy, ở đây chỉ có chuyện chúng ta, những người đọc và các đồng nghiệp, phải chấp nhận một lối sống, một phong cách. Cái phong cách ở Tế Hanh không gắt lên như một Nguyễn Tuân trong văn xuôi, một Hàn Mặc Tử trong thơ, song vẫn là một phong cách tự nó đã hoàn chỉnh và ổn định.
Phim Huyền Thoại Vikings
II

Mảnh đất miền Trung Trung Bộ từ Quảng Nam đến Bình Định là một trong những cái nôi lớn của nền thơ Việt Nam hiện đại, nơi đã sinh ra Quách Tấn và Chế Lan Viên, Xuân Diệu và Hàn Mặc Tử… Quê hương Quảng Ngãi của Tế Hanh nằm ở khoảng giữa của cái nôi đó, trong số các đồng hương của ông, có những thi sĩ cũng rất độc đáo như Bích Khê. Có điều, cũng như mọi người khi lớn lên và có sự tiếp nhận ảnh hưởng thơ, ông không dừng lại ở tỉnh nhà mà có lúc ra Huế, học với Huy Cận, có lúc sát cánh trong Việt Minh Trung Bộ, bên cạnh Tố Hữu, Hải Triều, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên… Sự đưa đẩy của lịch sử đã khiến cho hầu hết những người thuộc lứa tuổi ông thường có được những từng trải dày dạn.

Ví dụ nếu như trong kháng chiến chống Pháp, cực nam Trung bộ đã nổi tiếng như một mảnh đất thử thách tức một thứ chiến trường ác liệt nhất của miền Trung, thì trong số ít ỏi những đoàn văn nghệ sĩ đi vào cực nam những năm ấy, có Tế Hanh (trở về ông viết bài thơ khá nhất của ông hồi ấy, bài Người đàn bà Ninh Thuận).
Phim Huyền Thoại Vikings
Lại ví như, trong thời gian chống Mỹ không đi B. dài như Nguyễn Văn Bổng, song đến đầu 1975, tức là một thời điểm cũng khá khó khăn, Tế Hanh lại có mặt trong một đoàn văn nghệ sĩ, đi dọc Trường Sơn, cho mãi tới chiến trường Nam Bộ.

Ấy là không kể bao nhiêu thử thách đã đến, từ thời gian chia sẻ bom đạn với Hà Nội, Nam Định, những ngày ăn mì sợi, mua thịt theo phiếu như mọi người dân thường tới những đợt đấu tranh tư tưởng trong văn nghệ.

Tuy nhiên, hình như con người Tế Hanh có vì những sự tôi rèn đó mà thay đổi thì cũng là rất kín đáo. Trước sau, ông vẫn giữ nguyên cái tính cách ngơ ngơ ngác ngác và cái xúc động hồn nhiên kiểu học trò của mình – ít ra là ở bề ngoài.

Về mặt chức vụ mà xét, trong nhiều năm, Tế Hanh từng là ủy viên Ban chấp hành hoặc Thường vụ Hội Nhà văn (như Ban thư ký về sau), từng mười năm liền phụ trách đối ngoại của Hội, từng có chân trong Ban phụ trách nhà xuất bản Văn học những năm nó còn thuộc về Hội. Nhưng ông đã dễ dàng thoát ra khỏi các ràng buộc đó để trở về vị trí một người lao động có nghề, một nhà thơ lấy sáng tác làm lẽ tồn tại.

Nói vậy, liệu có nghĩa là bảo Tế Hanh hoàn toàn thoát tục, và sống khờ khạo, không biết lo liệu những chuyện riêng? Còn nhớ ai đó đốp chát hỏi Tô Hoài: “Người ta bảo anh khôn quá, anh nghĩ sao?” “Cậu tính, sống được ở trên đời này, ai chẳng phải có chút khôn, cái chính là đừng khôn lỏi, lộ liễu, đừng tham quá đến mờ cả mắt mà thôi”. Cái định lý của Tô Hoài quả là đúng với mọi người, kể cả trường hợp Tế Hanh chúng ta đang nói. Khi nghe tôi bảo rằng ông Tế Hanh luôn luôn ngơ ngác, mấy đồng nghiệp phũ mồm đã bảo ngay là ngơ ngác làm sao, có cái gì người khác có mà ông ấy thiệt thòi không có đâu? Lại có người lặng lẽ bổ sung một nhận xét: “Ấy, nhưng một kinh nghiệm của tôi là muốn biết đời sống văn nghệ có gì mới cứ gặp ông Tế Hanh, cái ăng-ten của ông ấy thuộc loại cực nhạy, nói nôm na là bố ấy cũng ma xó lắm!”. Vâng, các nhận xét ấy đều có lý, mỗi con người là một thế giới không cùng, và nói chung là chúng ta sẽ thất vọng, khi muốn tìm hiểu quá kỹ về một người nào đó. Song tôi cứ thấy trên đại thể thì Tế Hanh, đó vẫn là một người dễ chịu. Người giữ được cái cốt cách thi nhân. Người biết điều. Và người có khôn, thì cũng là khôn kín đáo.
Phim Huyền Thoại Vikings
Điều này lại cũng thấy rõ cả trong sáng tác. Qua cách sống cách viết của Tế Hanh, có cảm tưởng là ông rất hiểu cái tạng mà một nhà thơ mang tên Tế Hanh mang sẵn trong mình, và ông có thể là không cố ý, nhưng thật ra đã làm mọi cách, để cái tạng ấy được bền chắc và độc đáo. Khả năng sống hoà hợp với mình, hơn nữa khả năng giữ mình thật là mình, chỉ là mình, đã chi phối việc làm thơ của Tế Hanh trong mọi khâu từ chọn đề tài, chọn cách nói, cho đến sử dụng ngôn ngữ, thể loại. Nhưng trước tiên nó ở cái điệu tâm hồn của nhà thơ.

Mặc dù cũng trải qua đủ mọi khó khăn vất vả như mọi người đương thời, nhưng ông thích nói về những gì êm ả, dịu dàng.

Mặc dù nhận ra đủ mọi sắc thái gắt đậm, cùng là những cay chua mặn chát của đời sống, nhưng khi làm thơ, ông chỉ muốn viết về những sắc màu tươi tắn, những tấm lòng nhân hậu.

Mọi việc ở ông đôi khi như là tự nhiên mà nói, tự nhiên mà làm, không cần chủ tâm chủ định, mà cũng không cần lên gân lên cốt cố gắng.

Một người như thế sẽ có những thiệt thòi riêng, nhưng lại có những may mắn riêng, những niềm vui riêng mà cái niềm vui lớn nhất là có thể dồn tất cả nghị lực cho sáng tác, và dễ cảm thấy là chỉ ở đấy, mình mới được sống trọn vẹn.

Phim Huyền Thoại Vikings

III

Lần đầu tôi được gặp Tế Hanh là vào đầu 1968, tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ tư. Đại hội khai mạc ở Hội trường Ba Đình khá long trọng. Nhưng vì hoàn cảnh thời chiến nên làm việc ở tổ là chủ yếu. Đại hội kết thúc bằng một bữa cơm thân mật tổ chức tại khách sạn Phú Gia để chiêu đãi các đại biểu. May mắn cho tôi là trong bữa cơm ấy được ngồi cạnh hoạ sĩ Nguyễn Đỗ Cung và Tế Hanh. Mới gặp tôi lần đầu, nhưng Tế Hanh đã dành cho tôi sự tin cậy bằng cách đặt ra một câu hỏi mà tôi nhớ suốt đời. Câu hỏi đó như thế này:

- Cậu là nhà phê bình, cậu hãy cắt nghĩa thử xem tại sao, nhiều tập thơ mình làm trầy trật mãi không xong, trong khi hai tập thơ hay nhất của mình, Nghẹn ngào và Gửi miền Bắc, những bài chính chỉ làm trong độ nửa tháng.

Người sáng tác nào chẳng có lúc run rẩy cảm thấy tự mình không hiểu được mình. Nhưng ở đây, còn hơn là một bỡ ngỡ thông thường, nó là một cật vấn, một ám ảnh: có lẽ sáng tác là một cái gì rất bí mật, người ta có thể tìm kiếm hoài mà vẫn không ra lời giải đáp. Và như vậy thì thành tựu là cái ta không thể sấn sổ đuổi bắt được, mà hãy cứ làm việc hết mình, rồi tự nhiên nó sẽ tìm đến.

Hình như đằng sau cái câu hỏi về thơ của riêng mình, Tế Hanh muốn truyền sang người đối thoại một nhận xét chung và một tâm trạng chung như vậy.
Phim Huyền Thoại Vikings
Kể ra, được thúc đẩy bởi những cơn say sưa tập thể, con người ấy thỉnh thoảng cũng có những bốc đồng. Không ai khác, chính Tế Hanh có lần tự hào nói về thế hệ tiền chiến: “Bọn tôi, từ thuở 20-25 đã làm nên Thơ mới… Rồi bọn tôi thay nhau dẫn đầu trong thơ viết về chống Mỹ, cũng như có những bài thơ hay nhất ca ngợi chủ nghĩa xã hội…”. Bọn tôi, Bọn tôi… những nhận xét có tính chất tổng kết ấy có vẻ hợp với Chế Lan Viên hơn. Còn theo tôi nhớ, khẩu khí Tế Hanh thường khác. Khi nhìn lại thơ mình, và các đồng nghiệp, nhất là phần thơ mình, Tế Hanh có những rụt rè đáng yêu mà cũng là những nghiêm khắc biết điều hơn.

- Gặp em câu cuối cùng chưa nói

Buổi sớm qua rồi đã sắp trưa

Góc sân ánh nắng còn lưu luyến

Dừng lại trên chùm hoa báo mưa

Đấy là mấy câu thơ bâng quơ Tế Hanh cho in trong tập Đi suốt bài ca (1970). Khi thấy tôi ngỏ ý thích, Tế Hanh tâm sự:
Phim Huyền Thoại Vikings
- Cũng là ngẫu nhiên viết ra thôi. Ngồi trên xe vào Vĩnh Linh với cụ Tú Mỡ, cụ chỉ vào một giống hoa bên đường mà không ai biết tên, hỏi hoa gì đấy, mình nói buột miệng: chắc là hoa báo mưa.

Nhiều người viết cứ có thói quen thổi phồng những băn khoăn tìm tòi cùng là những dằn vặt trước trang giấy trắng. Nào tôi đã chủ bụng như thế này, quyết phải sáng tạo như thế kia. Nào lúc viết, cứ như có ai ốp đồng vào tay mình, một trạng thái thăng hoa kéo dài, mà bây giờ có nằm mơ cũng không lấy lại được nữa! Trong khi vẫn giữ nguyên mọi thành kính với sáng tác của bạn bè cũng như của bản thân, song Tế Hanh của tôi – nghĩa là cái con người Tế Hanh trong những lần nói chuyện riêng với tôi, mà cũng chính là con người Tế Hanh bộc lộ qua một số bài viết – cứ hàm cái ý ngược lại. Tổng kết đời mình, ông bảo cũng có những thành công, nhưng nhiều thất bại. Đứng trước những bài thơ hay, ông bảo ở mình có cảm giác nước đôi, lúc nghĩ như mình cũng viết được, lại có lúc nghĩ mình hoàn toàn bất lực. Và giả sử hiếm hoi có viết ra được vài câu có người khen hay thì ông cứ muốn thú nhận với mọi người là những dòng thơ ấy, ông đã ngẫu nhiên mà bắt được, chẳng qua là ông gặp may chứ không tài cán gì. Với một nụ cười ngượng nghịu ông sẵn sàng thú nhận với chúng ta rằng, làm thơ dễ sa đà lắm: “Có một hồi, tôi toàn viết lục bát. Lại có một hồi làm bài nào cũng ra thất ngôn. Nghĩ lại thì chẳng qua mình quen tay và nếu không cảnh giác với mình, khéo cứ theo mãi những lối mòn có sẵn”. Không rõ người khác có tin những lời tâm sự ấy của Tế Hanh, song về phần tôi, phải nói là tôi tin, cái chính là vì nó là một cái nhìn phải chăng về công việc của giới cầm bút. Nó không dẫn người ta tới sự thần bí hoá sáng tác, mà cũng không dẫn tới buông thả, lười biếng. Ngược lại nó yêu cầu người ta luôn luôn tỉnh táo đánh giá chính mình và các đồng nghiệp. Và tất cả là dựa trên một nhận thức cơ bản: nghề này rất khó.

Cũng nên nói thêm là bề ngoài có vẻ lơ mơ vậy, nhưng Tế Hanh thường chịu đọc người khác, và có cách đánh giá độc lập về sáng tác của người khác. Thỉnh thoảng có điều gì, cần hỏi về ai, tôi vẫn tìm gặp Tế Hanh và thường được ông trả lời bằng những nhận xét ngắn gọn, trực tiếp. Những cuộc trò chuyện với Tế Hanh không bao giờ thật hào hứng nhưng thường khi vẫn có những khía cạnh hữu ích, lý do là ở chỗ ấy.

Phim Huyền Thoại Vikings

IV

Không chỉ trong việc làm thơ mà còn có một lĩnh vực nữa mà ở đó, cái lối sống lối làm việc bất chợt, tuỳ tiện, có lúc như là thiểu năng bạc nhược ở Tế Hanh có dịp bộc lộ đầy đủ, đồng thời đằng sau đó, ở một tầng sâu hơn, lại là một Tế Hanh có vốn học khá rộng, một con người có thói quen làm nghề nghiêm túc, đã tự nguyện làm và muốn làm bằng đuợc những việc một người cầm bút phải làm. Đó là câu chuyện của Tế Hanh khi đi dịch, và rộng hơn, việc tiếp xúc của ông với văn hoá nước ngoài.

Cũng như Xuân Diệu, Nguyễn Xuân Sanh, Chế Lan Viên, Huy Cận… Tế Hanh thuộc lớp các nhà thơ được đào tạo kỹ ở nhà trường Pháp thuộc. Đối với các ông, cái vốn ngoại ngữ mà các thế hệ đến sau thường mơ ước, cái vốn ấy được gây dựng một cách tự nhiên; tiếng Pháp ở các ông gần như tiếng mẹ đẻ. Thành thử dịch thơ đối với mỗi người thường là một việc không đòi hỏi quá nhiều gắng gỏi.

Nhưng mỗi người trong họ lại có cái cách dịch và đọc riêng.

Xuân Diệu chẳng hạn. Đã làm việc gì, là Xuân Diệu đào cùng tát cạn. N. Hikmet và P. Neruda, Dmitrova, N. Guillen…, Xuân Diệu đã chạm vào ai là dọn ra một mâm đầy đặn. Những sáng tác của người ấy, tức là mỗi tác giả lớn ấy, được ông tổ chức dịch và giới thiệu hoàn chỉnh thành một tập riêng, đứng tên ông, ít nhất cũng là góp thêm một dòng trong cái mục Cùng một tác giả đặt ở mấy trang đầu các cuốn sách của ông.

Lối làm việc của Tế Hanh thì hầu như ngược lại.
Phim Huyền Thoại Vikings
Trong khi cũng lang bạt phiêu lãng giữa cánh rừng thơ, hầu như chưa bao giờ ông thuộc về ai hoàn toàn. Thuý Toàn dịch Pushkin ư, ông sẽ gửi tới bài Một bờ bến khác. Bằng Việt dịch J. Ritsos ư ? Ông cũng có cả một chùm để góp cho tập Tôi muốn nói bằng ngôn ngữ tình yêu ấy, nhưng chỉ là một chùm nhỏ. Rồi Hugo, rồi L. Hughes, rồi S. Petofi, rồi B. Brecht, hầu như không có nhà thơ lớn nào mà ông không từng đọc, và giá ai kia có làm riêng tập thơ về nhà thơ lớn đó ông cũng có thể góp một hai bài. Nhưng chỉ có thế! Rất chật vật là những lần tự ông phải thầu dịch cả một nhà thơ nào đó. Thể nào ông cũng cần đến người chi viện. Và tập thơ ấy thường mỏng, lời giới thiệu thường ngắn gọn. Ông không yêu ai đến cùng, hay không đủ sức làm một công trình dịch thuật trọn vẹn – nói như thế nào cũng được. Thế nhưng không phải như vậy mà nói rằng sự đọc nước ngoài của Tế Hanh tuỳ tiện chểnh mảng. Ngược lại, trong cái vẻ ngẫu nhiên gặp đâu hay đấy của mình, ông lại có một sự quan tâm thường trực với văn học nước ngoài và có thể nói là luôn sống với nó một cách sâu sắc. ở đây ông không làm dáng làm bộ, không ra vẻ một tín đồ cuồng nhiệt, mà cũng không có lối vụ lợi, đọc đến đâu phải dịch, phải cho in, phải kiếm lời hoặc phải vận dụng vào các sáng tác trước mắt ngay lập tức – không, việc đọc và dịch với Tế Hanh đơn giản hơn nhiều. Làm nghề gì, thì cũng phải biết bên Tây bên Tàu người ta làm nghề ấy thế nào, nữa là nghề cầm bút – ấy, đại khái lý lẽ thúc đẩy ông là như vậy. Lâu dần, ông biến đọc và dịch thành một niềm vui, một việc hàng ngày như phải ăn phải uống, và trong khi cứ đủng đỉnh mà đi, không quá bị ràng buộc bởi những chủ đích có sẵn, đôi khi ông lại hái được những trái đẹp.

Ngay từ 1961, trong tập Thơ Aragon do nhà xuất bản Văn học cho in, Đào Xuân Quý viết lời giới thiệu, Tế Hanh đã đóng góp vào mấy bài dịch rất hay mà như tôi nhớ trong những năm chống Mỹ, Lưu Quang Vũ rất thích, thường đọc đi đọc lại:

- Chuyện nhân thế nhờ em anh biết được

Anh nhìn đời theo con mắt của em

- Hỡi em của anh, em của anh, chỉ em là còn lại

Trong hoàng hôn buồn bã của cuộc đời

Khi anh mất cả dòng thơ êm ái

Cả dòng đời, cả tiếng nói niềm vui

Vì anh muốn tiếng yêu em anh nhắc lại

Tiếng mới đau sao khi thiếu mất em rồi.
Phim Huyền Thoại Vikings
Vậy là Tế Hanh đã dịch cả Eluard lẫn Aragon. Dịch Eluard còn có lý – cái chất của tác giả Tự do, chắc là Tế Hanh dễ chia sẻ. Nhưng đằng này, cả cái chất dày dặn, nồng đậm của Aragon, Tế Hanh cũng nắm được chắc chắn. Mà việc này có lý do sâu xa của nó! Tế Hanh thích Aragon ở cả cái phía con người phức tạp của nhà thơ Pháp, thế mới lạ.
Phim Huyền Thoại Vikings
Hồi đó là năm 1982. Nhà xuất bản Tác phẩm mới nơi tôi làm việc cho in cuốn Mười nhà thơ lớn của thế kỷ. Tế Hanh đọc và bảo ngay:

- Mình rất thích cái ý của bà Alighe: Thơ Aragon có lúc như những vòm đại lễ cao cả của nhà thờ, có lúc như những hành lang tối tăm. Cả hai cái đó mới thành Aragon.

Lại còn một nhà thơ nữa là René Char, theo Tế Hanh bảo, thì cũng là một cực khác của thơ Pháp hiện đại. Nhưng – Tế Hanh bổ sung – R. Char và Aragon, hai ông này không chịu nhau. Và một biên tập viên ở một nhà xuất bản Pháp nhăn nhó kể khổ: khi giữa các ông lớn có chuyện thì người hứng chịu là cánh lau nhau chúng mình.

Về Ritsos:

- Hồi tôi chữa bệnh ở Đức, gặp một người Hy Lạp biết tiếng Pháp. Nhà thơ đầu tiên mà người Hy Lạp này nhắc tới là Ritsos.

Sau một lần tiếp mấy nhà thơ Liên xô, cuối 1983:

- Người vừa mất đi mà họ coi là thiệt thòi nhất trong năm 1983 là Vysotsky, thế mới lạ. Hoá ra, chính ở thời bây giờ, những nhà thơ kiểu du ca vẫn có vị trí của họ.



Cứ thế Tế Hanh lẩn mẩn nhặt nhạnh được tài liệu trên báo chí, sách vở, và kể với chúng tôi đủ thứ chuyện. Những chi tiết tưởng nho nhỏ, không đâu vào đâu người khác có thể bỏ quên. Nhưng Tế Hanh thì nhớ. Không những tác phẩm, mà đời sống của người sáng tác, những mối quan hệ riêng tư của họ với nhau, cũng được ông lọc ra rất nhanh giữa bộn bề tài liệu, để rồi vừa chiêm nghiệm, vừa kể lại với người khác.



V

Sau giai đoạn trẻ trung sôi nổi, có những người già đi như một sự đổ sụp. Thế chỗ cho những vùng vẫy bươn chải là những chậm chạp mòn mỏi, khiến cho người ta cảm thấy một sự tương phản rõ rệt, và dễ sinh ra tiếc nuối khi nhớ lại hình bóng hôm qua.

Lại có những người hiu hiu uể oải ngay từ khi còn trẻ, loại người này chuyển sang tuổi già một cách dễ dàng đến mức tự nhiên, và người chung quanh sẽ chung sống với cái người đang già đi ấy không chút khó khăn, dù khi nhìn lại, vẫn không thể không nhận ra dấu ấn của thời gian khắc nghiệt để lại trên dáng đi, trên nét mặt con người mình quan sát.

Trong số các cây bút hiện thời, chịu sự tác động của thời gian theo cái kiểu thứ hai trên đây vừa nói, trong tâm trí bọn tôi, luôn luôn có Tế Hanh.

Thời trẻ, tức là những năm tuổi mới bốn mươi, ông đã thuộc lớp nhà văn sống qua hai chế độ. Cộng với bản tính sẵn có ông trở nên sớm đơn độc, sớm quay về với sáng tác, nghĩa là sớm có cách sống của một người già. Nhưng từ ấy, gần như ông không già thêm nữa. Hàng ngày, ông đi về trước mắt mọi người như một cái bóng – bảo có cũng được, mà không cũng được, không gây một ấn tượng gì thật đậm. Thỉnh thoảng Tế Hanh chỉ nói một hai câu, nhưng người ta lại lập tức cảm thấy lâu nay, ông biết tất cả, ông nghe được hết những gì là quan trọng, là cái chính mọi người cần nghe, và hoá ra ông vẫn hiện diện bên chúng ta, hiện diện với đúng mọi nghĩa của nó. Nghĩa là có chứng kiến, và có phát biểu, có tìm cách nói lên sự lắng lại của lòng mình trước điều đã chứng kiến.

Từ khi bước sang tuổi 70, Tế Hanh yếu hẳn. Không phải chỉ đi chậm, nói chậm, mà nhìn cũng chậm – một con mắt của ông phải mổ. Trong khi bằng trạc tuổi ấy, Tô Hoài còn hóm hỉnh tinh nhanh không kém ngày xưa thì Tế Hanh như nẫu đi, tóp lại. Bây giờ người đi men tường không chỉ sang chỗ nhà xuất bản chúng tôi vào các buổi sáng mà hầu như cả ngày, đi đâu về cũng ghé vào. Ông cũng không cần gọi ai ra nói riêng nữa: thấy chúng tôi đang họp, ông loay hoay tìm một cái ghế ngồi cạnh. Dù chẳng hào hứng nghe ngóng gì và chỉ ngồi một chốc một lát lại đi, song ông vẫn thích làm thế, còn chúng tôi cũng xem là chuyện tự nhiên. Những hôm cơ quan không họp, chỉ quây quanh bàn nước trò chuyện, giao ban đời sống văn nghệ, thì Tế Hanh ngồi lâu hơn. Ông nhờ ai đó, đọc hộ một cái thư, hoặc mấy tài liệu mới nhận được. Và ông chia sẻ với mọi người những ý nghĩ nảy sinh giữa cuộc sống lẩn mẩn hàng ngày.

- Đứa con mình ở Tiệp vừa về. Nó bảo vừa được chứng kiến tổng thống Mỹ đến thăm Praha. Và ai có thể tưởng tượng là ông tổng thống quan trọng ấy cầm lấy một cây kèn để thổi, quan khách cùng nghe.

- Hàng xóm nhà mình có một thằng bé ăn dưa lê phải vào viện đấy. Dưa có phun thuốc sâu!

- Chỗ này thì mình đồng ý với Nhàn, trong số những người được giải Nobel văn chương mươi năm nay, thì Octave Paz là người gây ấn tượng nhất. Ở ông ta có 100% văn hoá bản địa mà lại cũng 100% văn hoá phương Tây. Nhưng mình nhớ có đọc đâu đó, Octave Paz và G. Garcia Marquez rất không thích nhau.

- Mình vừa viết một mẩu hồi ký ngắn, kể chuyện sang Trung Quốc dự lễ kỷ niệm Lỗ Tấn với Phan Khôi. Lúc đến thăm một cái đài cao ở Thượng Hải, ông ấy bảo ông ấy già, ông ấy không lên. Nhưng lúc ở chân tháp nói chuyện, ông dẫn một bài thơ cổ Trung Hoa khiến các bạn bên ấy rất phục.

- Đây! Mình tặng ông cái này, bài báo của Nhất Linh viết về tập Nghẹn ngào, khi tặng giải thưởng cho nó. Ông Chế Lan Viên viết lời bạt cho Tuyển tập Tế Hanh có dẫn ra rằng trên báo Ngày nay có viết về Tế Hanh thế này, thế này, chính là dẫn ra từ bài báo của Nhất Linh, chỉ không dẫn tên tác giả ra thôi.

- Công của Chế Lan Viên với thơ ta sau 45 rất lớn, ông ấy mang vào c

Phim Hành Trình Trả Thù

 Hành Trình Trả Thù
Phim Hành Trình Trả Thù







Phim Hành Trình Trả Thù



Những năm 1966-1967 – mà đôi khi người ta hay gọi tắt là khoảng đầu chống Mỹ – khi Đỗ Chu, Phạm Tiến Duật và nhiều người khác bắt đầu viết đều và cũng hay đến chơi đều đều những người viết văn lớp trước, thì một trong những nơi các anh hay đến và rủ tôi cùng đến, là nhà Nguyễn Thành Long. Giờ đây, căn phòng gần ba chục mét của anh Long ở phố Dã Tượng có vẻ đã quá hẹp, người lạ đến chơi thật dễ ái ngại khi nghĩ trên diện tích ấy, cả gia đình (hai vợ chồng và hai cháu gái) cùng cư ngụ. Song trong con mắt chúng tôi những năm cuối 60 đầu 70, căn phòng ấy đã quá rộng: đối với một người viết văn, một chỗ ở như thế thật đã gọi là lý tưởng(!). Anh Long ngày ấy mới trên bốn mươi, song dáng vẻ thì cũng như lúc về già, nghĩa là mảnh mai gầy gò bước đi lẫn cách nói chuyện đều chậm rãi, chắc chắn. Trông anh lúc nào cũng như chìm trong suy nghĩ. Cái đầu khá to khiến cho nét mặt đăm chiêu thêm trĩu nặng hơn. Anh hay hỏi han chúng tôi về đời sống riêng tư. Vào cái thuở mà giới viết văn còn sống thân mật như trong một gia đình, với chúng tôi, đấy là một người anh gần gũi. Trong đám anh em ít tuổi anh nào yêu cô nào hay dẫn cô nào đến chơi anh đều ủng hộ và sẵn sàng làm một thứ trung gian móc nối thêm. Khoảng đầu 1968, khi đám cưới Đỗ Chu tổ chức trên thị xã Bắc Ninh, anh lấy xe đạp đèo chị Nguyệt vợ anh vượt 29 cây số về dự. Cố nhiên sự quan tâm chính của anh dành cho chúng tôi vẫn là sáng tác. Dễ không ai lại chăm đọc anh em viết trẻ như Nguyễn Thành Long. Và trước vô số những câu hỏi về nghề nghiệp, cả những câu hỏi thông minh lẫn những câu ngớ ngẩn do bọn tôi đặt ra, thường anh ngẫm nghĩ tìm câu trả lời thật gọn, nhưng cũng thật thấu tình đạt lý. Đại khái, anh thường đi tới những kết luận giản dị:
Phim Hành Trình Trả Thù
- Nghề của mình khó lắm.

- Phải biết trân trọng nhau, được người nào quý người ấy.

- Trước khi tính chuyện viết lách, phải lo bảo ban nhau về cách sống. “Sống sai là viết sai ngay” – Nguyễn Thành Long nói dứt khoát như hai với hai là bốn.

Trong ý nghĩ của một số người chúng tôi hồi ấy, Nguyễn Thành Long là nhà văn vừa có vốn liếng thực tế vừa có học, lại có tấm lòng đôn hậu. Tài năng của anh là do công phu mà nên, có vẻ nó như một thứ tài có thể cố mà được, nên chúng tôi càng thấy gần.

Về sau này, sự lại chơi của một số anh em trẻ với Nguyễn Thành Long có thưa thớt hơn. Song ân tình cũ thì mãi mãi vẫn còn – trên bước đường đời của mỗi người, thật nhiều kỷ niệm là những bước chập chững đầu tiên và những người giơ tay đón ta lúc ấy, bao giờ ta quên nổi! Huống chi, một người như Nguyễn Thành Long, trong cuộc sống hơn 40 năm cầm bút, thật đã đi đến cùng trên con đường đã lựa chọn, và một cuộc đời như vậy nếu không phải để ta theo thì cũng luôn luôn để cho người ta phải so sánh, đối chiếu, rút kinh nghiệm. Ai đó đã nói chí lý “Cuộc sống bao giờ cũng cao hơn cái chết, ít nhất là một cuộc đời. Nếu không có cái để mà sống thì cũng làm gì có cái để mà chết”.
Phim Hành Trình Trả Thù
II

Khi nhớ lại quá trình sáng tác Lặng lẽ Sa Pa, Nguyễn Thành Long có lần kể rằng nếu chỉ viết riêng về các nhân vật ở trạm khí tượng thì hơi khó. Nên sau khi đã có tài liệu đầy đủ, để lên được truyện ngắn, anh phải thêm vào nhân vật người hoạ sĩ già. Người hoạ sĩ này, cũng tương tự như vai nhà báo trong Buổi sáng Điện Biên, hoặc một nhà báo khác trong Sớm mai nào xế chiều nàokhông chỉ là loại nhân vật dẫn truyện, mà còn là hình ảnh tốt đẹp của một loại người khác, những người làm nghề sáng tạo. Nét đặc biệt của các nhân vật này: họ đều hay đi, say đi, thích xem xét công việc mọi người đang làm. Tâm hồn ở họ rộng mở và họ biết chan hoà vào chung quanh, chia sẻ vui buồn cùng mọi người. Và đặc biệt dưới cái bề ngoài lặng lẽ, họ thích đơn độc trong những suy nghĩ về mình và về chung quanh. Không còn ở lứa tuổi thanh niên nữa, nhưng tâm hồn mỗi người thường trẻ trung tươi tắn.

Khỏi phải nói, hình ảnh những nhà báo nhà văn hoạ sĩ nói ở đây chính là hình ảnh của Nguyễn Thành Long.

Một lần cùng đi công tác với Nguyễn Thành Long lên Tuyên Quang, tôi bất ngờ nhận ra rằng sao nhà văn này đi nhiều và bạn với nhiều người đến thế. Đến nông trường này, anh có người quen, đến bệnh viện kia, hỏi thăm một lúc, anh lại nhận ra người quen khác, mà toàn là những bạn bè biết nhau sau các chuyến đi thực tế. Họ là giám đốc nông trường, giám đốc mỏ, các đội trưởng lao động, các công nhân… Nơi làm việc của họ đôi khi là những nhà máy xí nghiệp cũ kỹ, sống lay lắt tại một miền quê xa xôi hay một miền rừng heo hút nào đó. Vậy mà một lần Nguyễn Thành Long đã đến, đã ngồi hàng giờ nghe họ tâm sự, đã đưa cuộc đời họ vào các sáng tác của mình. Thậm chí, sau khi đã viết xong, Nguyễn Thành Long vẫn cứ còn nhớ mãi về họ, xem họ như bạn bè, có dịp là nhắc tới họ với những lời thương mến.
Phim Hành Trình Trả Thù
Hồi mới vào nghề – cũng là dịp hay đến với Nguyễn Thành Long – tôi tưởng cách quan hệ, cách làm việc như thế đã là tất cả công việc phải làm đối với một người viết văn. Mãi về sau, tôi mới hiểu rằng mặc dù đó là cách làm việc chăm chỉ, lương thiện nhưng vẫn chưa đủ. Nhà văn cần một cái gì hơn thế nữa: Cần sự nhập thân vào hẳn một mảng một khu vực của đời sống (Khu vực theo nghĩa rộng, khu vực của những vui buồn sung sướng hay thất vọng, chứ không phải khu vực địa lý). Cần sống chết với các nhân vật riêng mình có, sống chết với những vấn đề thiết thân mà mình tự đặt ra và giải quyết. Nói chung là cần viết bằng những ao ước băn khoăn vui buồn hàng ngày của mình, chứ không phải chỉ lo quan sát, ghi chép về người khác. Tôi không đảm bảo là Nguyễn Thành Long không có những điều kiện làm nên chất văn như thế. Nhưng có vẻ như anh không thường xuyên huy động đến nó, cả đời cầm bút ít khi anh viết cho mình, nên thường anh chỉ có những truyện ngắn kỹ về câu cú chữ nghĩa, giỏi về dẫn truyện hoặc tạo không khí, trong đó có phác hoạ ra vài con người làm cảnh, chứ không có cái mà người ta gọi là thế giới riêng. Kết quả là những chuyến đi, và những cái viết ra của anh sau các chuyến đi cứ na ná giống nhau, cái sau sa vào vết mòn của cái trước… Nhưng thôi phán xét về những điều một nhà văn không làm, là điều nói không bao giờ đến cùng! Trước mắt, hãy biết Nguyễn Thành Long có cái cách đi cách viết, cách hình thành tác phẩm riêng và công việc đó đã được anh làm nghiêm chỉnh, tận tuỵ. Đối với những người mới viết, đó là những điều cấp thiết bậc nhất.

III
Phim Hành Trình Trả Thù
Một khía cạnh khác làm nên sự lương thiện trong quá trình hành nghề của Nguyễn Thành Long là khả năng sống một cách hết lòng với các việc cụ thể trước trang giấy trắng.

Chỉ cần đọc một đoạn văn ngắn của Nguyễn Thành Long, người ta có thể nhận ra ngay rằng đấy là một người viết kỹ lưỡng. Từng câu một được anh cân nhắc, câu sau không phải cứ nảy sinh tuồn tuột từ câu trước, mà mỗi câu đều đòi hỏi công sức riêng, năng lượng riêng cho nó. Chữ Nguyễn Thành Long sít, chặt, nhỏ nhưng dễ đọc. Cả các truyện của anh cũng thế. Đi đâu về, anh cũng muốn viết, và không phải chỉ viết ký thôi, phải viết truyện mới hả! Viết như một món nợ! Và người viết này rất sòng phẳng, rất muốn trả nợ cho đâu vào đấy! Thế là có thể anh ngồi hàng tuần hàng nửa tháng để hý hoáy xếp đặt, dàn truyện. Và có khi để hàng vài tháng, để viết một truyện ngắn. Còn nhớ có lần Nguyễn Khải, thấy Nguyễn Thành Long sáng tác theo lối câu dầm vậy, đã nửa đùa nửa thật hạ một câu vui vẻ:

- Viết thế thì đói là phải!

Bản thân Nguyễn Thành Long cũng nói về mình đại ý: “Nhưng có lẽ là giời đầy tôi, tôi cứ phải lo nhận xét, ghi chép, và đắn đo ở từng chữ như vậy”. Có cảm tưởng là Nguyễn Thành Long rất nghiệt với mình, với nghề của mình, và trong niềm đau khổ đang phải chịu đựng anh lại ngấm ngầm cảm thấy có niềm sung sướng. Nếu có một thứ tôn giáo phụng thờ ý nghĩa thiêng liêng của nghiệp cầm bút thì Nguyễn Thành Long là một tín đồ nồng nhiệt của tôn giáo đó. Tôi nhớ những lần nói chuyện với anh về đời sống văn học nói chung. Giữa những người viết với nhau, sự đọc nhau vừa là tình cảm, vừa là công việc, nếu có khắt khe một chút, thì cũng là chuyện thường tình. Nguyễn Thành Long chăm đọc người khác, và quả thực, thuyết phục được anh, không dễ dàng chút nào. Nhưng cái sự yêu cầu cao như vậy, là một cách để Nguyễn Thành Long biểu hiện niềm tin của mình với một ngòi bút nào đó. Ngược lại điều mà tôi nhớ nhất, là những lúc Nguyễn Thành Long phát hiện ra kẻ làm ăn cẩu thả. Anh dễ dàng đỏ mặt lên vì ngượng thay cho người đó. Không nói chi nhiều, anh chỉ nhắc đi nhắc lại: “Viết thế là tầm bậy! tầm bậy”, nhưng chỉ một câu đó thôi, đủ nói lên thái độ của anh là thế nào!

IV
Phim Hành Trình Trả Thù
Chẳng những thành kính kỹ lưỡng trong lao động cụ thể – phải nói là ở Nguyễn Thành Long, nghề viết văn còn được hiểu như một sứ mệnh thiêng liêng, một công việc của cả đời người, không một chút nào người ta được phép dễ dãi.

Đây có lẽ là một quan niệm về văn học thấy có ở nhiều người, nhất là những người lớn lên và làm văn nghệ từ sau 1945 trở đi. Cùng với khói lửa của cuộc chiến tranh, những trang sách trang báo của chúng ta đã ra đời và trở thành vũ khí, được trang nào quý trang ấy. Lâu dần, cái ý nghĩa cao quý mà chúng ta mang lại cho nghề văn càng trở thành một sự tự ràng buộc. Nguyễn Thành Long là một trong những người chấp nhận sự ràng buộc đó vừa tự nguyện vừa thích thú.

Ở chỗ này, tôi nhớ một chi tiết có ý nghĩa đối chiếu:

Để phác hoạ lại sinh hoạt văn chương nước mình hồi đầu thế kỷ, nhà văn Nguyễn Công Hoan từng viết Đời viết văn của tôi. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Công Hoan rất đồ sộ, trong các truyện ngắn truyện dài của ông, các nhà phê bình đã tìm được nhiều điều có ý nghĩa. Vậy mà ngay từ khi đang viết khoẻ cũng như về cuối đời khi nhìn lại quá trình viết của mình, Nguyễn Công Hoan vẫn không khỏi ngả sang một cách nói bông đùa. Ông viết: “Làng văn, từ xưa đến giờ, quả là cái chợ”. Khi đọc đến chỗ này, Nguyễn Thành Long không bằng lòng. Trong cuốn Đời viết văn của tôi (bản của Thư viện Hội Nhà văn Việt Nam) bên cạnh câu văn trên của Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Thành Long ghi bằng mực đỏ hai chữ “nói bậy”.

Xét trong quan hệ hàng ngày, giữa hai người không có chuyện gì. Trong khi kể lại những kỷ niệm về đời văn của mình với Hà Nội, Nguyễn Thành Long thường vẫn nhắc nhở đến sự giúp đỡ của Nguyễn Công Hoan. Trước 1975, gia đình cụ Hoan ở Hàng Bông Nhuộm, nhà Nguyễn Thành Long ở Dã Tượng, hai nhà rất gần nhau. Thường khi, nếu tối hôm trước, đài phát thanh có đọc bài nào của Nguyễn Thành Long, thì hôm sau, Nguyễn Công Hoan đi đâu vẫn rẽ vào nhà Nguyễn Thành Long chơi, để nêu một vài nhận xét thân tình.
Phim Hành Trình Trả Thù
Thế nhưng, đứng về quan niệm nghề văn, những ý nghĩ bông đùa của Nguyễn Công Hoan là điều mà Nguyễn Thành Long hoàn toàn không thể chia sẻ.

Sự nghiêm trang của Nguyễn Thành Long cũng như sự bông đùa ở Nguyễn Công Hoan có lẽ là hai phía có thật, cùng có ở nghề văn, cùng có ở cuộc đời này nói chung. Những nhà văn lớn trên thế giới, thường cùng lúc, cảm thấy cả hai phương diện ấy của cùng một đối tượng. Nhà văn Pháp Simone de Beauvoir có lần bảo: “Thật là buồn khi nghĩ rằng nghề văn có lắm ý nghĩa đến thế, trong khi nó chỉ có thế”. Một nhà văn khác: “Kiếp nhân sinh nghiêm chỉnh một cách rầu rĩ”. Một nhà văn khác nữa: “Cuộc đời là một tấn hài kịch, nhưng đó là cái trò hài khiến người ta cười ra nước mắt”. Nguyễn Công Hoan và Nguyễn Thành Long thì khác, mỗi người sống với một phía của cái chân lý hai mặt nói trên, và đẩy nó đến cùng. Về trường hợp Nguyễn Công Hoan, đấy là câu chuyện chúng ta sẽ bàn trong một dịp khác. Còn về Nguyễn Thành Long, thì có thể nói ngay rằng không phải là anh lên gân lên cốt gì cả, mà tự anh đã nghĩ thế. Một trong những nhà văn chơi thân với Nguyễn Thành Long là Huy Phương có lần nói đùa với tôi: “Ông Long là cái loại nhà văn khi viết toàn ngước nhìn lên các ngọn cây” – theo tôi hiểu, ở đây Huy Phương muốn nói đến một thứ tâm thế học trò ở ngòi bút nhiều người đương thời, trong đó có Nguyễn Thành Long và ở một dạng nào đó, ở chính Huy Phương nữa. Cái chất thư sinh sẵn có ban đầu trong ta không mất đi với thời gian, mà thật kỳ lạ (hay thật khốn khổ?), nó cứ theo ta trong suốt cuộc đời cầm bút. Và rút cục cái yếu tố dẫn người ta đến với nghề đôi khi lại là yếu tố giữ người ta lại, không sao bay lên được!
Phim Hành Trình Trả Thù
V

Theo như chính Nguyễn Thành Long từng kể, thì trước 1945 tức hồi còn học tú tài ở Hà Nội, anh đã có bài viết, in trên Thanh nghị là một tờ báo tập hợp được nhiều trí thức có uy tín thời ấy. Con đường đi của người trí thức trong lòng xã hội thuộc địa, từng là vấn đề day dứt lòng anh, và trở thành chủ đề của một vài cuốn sách – chắc chắn là còn non nớt và còn chưa kịp xuất bản – của anh bấy giờ. Vấn đề trí thức cũng sẽ ám ảnh Nguyễn Thành Long trong suốt cuộc kháng chiến: một mặt lăn lộn với công nông không bỏ qua một chuyến đi thực tế nào đó Chi hội văn nghệ Khu Năm bấy giờ tổ chức; mặt khác, luôn luôn anh sục sạo săn tìm sách vở để xem người khác đã làm văn nghệ như thế nào, và bản thân mình nên làm theo cách nào. Trong hoàn cảnh của Khu Năm xa xôi, các anh vẫn tìm đọc từ Người mẹ, Suối thép, Người Xô viết chúng tôi cho tới cả Sự hồi sinh của nền văn hoá Pháp của Garaudy. Đúng theo cách làm của kháng chiến, sau khi đọc xong một số tác phẩm anh đã tóm tắt lại để người khác cùng đọc. Bởi vậy, trong danh mục sách của Nguyễn Thành Long đã in ở Khu Năm, mới có cuốn Kể lại một số tiểu thuyết Xô viết. Và về sau, khi làm báoVăn học, Nguyễn Thành Long còn viết nhiều bài về văn học nước ngoài, ký tên Phan Minh Thảo, cũng như nhặt ra kinh nghiệm viết văn của nhiều người in rải rác, rồi sau tập hợp thành cuốn sách nhỏ, mang tên Sổ tay viết văn ký tên Lưu Quỳnh.
Phim Hành Trình Trả Thù
Có lẽ những chi tiết này càng cắt nghĩa rõ thêm về sự hấp dẫn của Nguyễn Thành Long đối với một số anh em viết trẻ những năm đầu chống Mỹ mà trên kia tôi vừa nhắc tới. Trong căn phòng chật hẹp của Nguyễn Thành Long lúc ấy, thỉnh thoảng đến chơi, tôi thường gặp Chính Yên, Huy Phương, Trần Đĩnh, về sau là Ngô Quân Miện và một vài người khác. Ngoài những mảnh vụn thời sự trong nước quốc tế, cùng những “chuyện làng chuyện xóm” lặt vặt vơ vẩn xảy ra hàng ngày trong giới cầm bút, tôi thấy đặc biệt ở nhóm bạn của Nguyễn Thành Long có một loại chuyện khác. Những cuốn sách tiếng Pháp (thường là loại sách bỏ túi) mà Hội Nhà văn được biếu, các số Lettre Francaise, Europe, Lettres Sovietique, Revue Roumanie… về đều đều được các anh truyền tay, kèm theo những nhận xét như của người trong cuộc:

- Thế mới biết đảng Pháp họ quý một nhà văn ngoài đảng như thế nào. Elsa Triolet chết mà L’humanité viền đen cả mấy số liền.

- Bản dịch Con người năm tháng cuộc đời của Ehrenburg vừa được nhà Gallimard cho in. Khối chuyện được xới ra, bây giờ mọi người mới thấy có lý. Về già mà Ehrenburg còn bợm thật. Người ta bảo đọc xong cuốn hồi ký này, tự nhiên không ai muốn giở lại tiểu thuyết của ông ta nữa.

- Cái tay Kataev cũng lạ. Hồi ký gì mà như đánh đố, vừa thật vừa giả. Nhưng mà một cuộc đời như thế thì phong phú thật. Hình như Elsa Triolet có nói ở đâu đó rằng vì Kataev mà Maiakovski tự tử đấy.

- Chỉ là giọt nước cuối cùng thôi.

- Nói xuôi nói ngược gì cũng cần sự thật. Chính tôi thích hơn cả, lại là cách viết trần trụi của Malaparte. La Peau mới thật là khinh bạc cay đắng mà lại quý phái chứ.
Phim Hành Trình Trả Thù
… Giờ đây, hơn hai chục năm đã qua đi, tôi cũng nhớ không thật rõ tất cả những chuyện lặt vặt nói trên, tôi nghe từ miệng ai nói ra và nội dung có đúng là thế không. Nhưng cái này, thì xin bảo đảm chắc chắn: không khí bạn bè ở chỗ Nguyễn Thành Long, là một không khí trí thức. Các anh vừa sống, vừa viết, vừa quan tâm tới một đời sống văn hoá khác, mà các anh yêu mến và sống hết lòng. Lúc đang say chuyện thỉnh thoảng các anh chêm vào một vài câu tiếng Pháp. Tôi không hiểu được những câu nói ấy, nhưng nhìn nét mặt của các anh, biết rằng phải làm thế, người nói mới diễn tả được hết ý nghĩ của mình, và nỗi sung sướng đang đến trong lòng mình. Từ câu chuyện nghe lỏm được qua miệng những Chính Yên, Trần Đĩnh, Huy Phương, Nguyễn Thành Long, tôi bỗng cảm thấy cái đời sống văn học mình đang có phần can dự, như được kéo dài ra, nối mãi vào cả cái khu vực bao la huyền diệu, là toàn bộ đời sống văn học thế giới hiện đại. Đôi lúc, có cảm tưởng rằng những quyển sách mà tôi chỉ ngắm nhìn, những tác giả mà tôi chỉ nghe tên cũng như đang sống đâu đây, họ cùng gợi nên những vui buồn yêu ghét trong lòng tôi, như những Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Nguyễn Khải, Tô Hoài… mà tôi hằng gặp.

Cũng phải nói thêm rằng, bên cạnh Nguyễn Thành Long viết truyện ngắn, Nguyễn Thành Long làm báo và làm xuất bản, trong tôi còn một Nguyễn Thành Long dịch giả, đúng hơn là một Nguyễn Thành Long tiếp cận những tìm tòi mới trong văn xuôi hiện đại. ý tôi muốn nói tới cuốn Roméo Juliet và bóng tối của nhà văn Tiệp Khắc Jan Otchenasek do anh dịch ra tiếng Việt. Đấy là một thể nghiệm nhằm sử dụng những tìm tòi của các bậc thầy văn xuôi hiện đại như M. Proust, James Joyce vào việc biểu hiện những nội dung hiện thực và cách mạng. Không nghi ngờ gì nữa, đó cũng là điều băn khoăn thường xuyên của Nguyễn Thành Long. Nhiều anh em trong nghề biết rằng một vài thủ pháp kỹ thuật mới của văn xuôi đã được áp dụng dè dặt trong các truyện ngắn loại như Con trai con gái cụ Hồ (in lại ở Giữa trong xanh). Trong đời sống văn học ở Hà Nội từ 1975 về trước, những tìm tòi loại đó âm thầm bé nhỏ, không đáng kể gì hết. Song, với típ người cầm bút như Nguyễn Thành Long thì nó là cả một nhu cầu nội tại, kể cả nhiều khi biết rằng đeo đẳng chỉ thêm phiền, người ta vẫn không từ bỏ nổi!
Phim Hành Trình Trả Thù
VI

Tai hoạ như trẻ con trên mặt đất

Người ta rồi ai cũng có thôi

Anh nói điều ấy thật thản nhiên

Mắt đăm đắm nhìn chiều xuống

Mấy câu thơ ấy là do Bằng Việt dịch của Eluard. Không hiểu sao chúng cứ trở đi trở lại trong đầu óc tôi, mỗi khi nghĩ đến những người căn bản là lành, căn bản là tốt, mà thỉnh thoảng lại cứ gặp phải những tai nạn nghề nghiệp nho nhỏ, như Nguyễn Thành Long. Hình như nghề này quá khó và những người vụng về thì quá nhiều, cho nên đành tự an ủi là “rồi ai cũng có thôi”, vật vã thắc mắc phân tích rạch ròi làm chi cho mệt!
Phim Hành Trình Trả Thù
Khoảng 1956, 57, sau khi cho in những bút ký có được tiếng vang nào đó hồi ấy, như Hướng Điền, như Gió bấc gió nồm, tự nhiên Nguyễn Thành Long lại mắc vào vụ Một trò chơi nguy hiểm. Những năm đầu chống Mỹ, bên cạnh Tờ hoa, Tình rừng của Nguyễn Tuân, Cái gốc của anh cũng trở thành một đối tượng để phê phán. Khi những vụ việc này xảy ra, tôi còn quá nhỏ (vụ trước) hoặc quá non nớt trong nghề (vụ sau), nên không thật rõ mọi chuyện ra sao. Tuy nhiên những năm có dịp gần Nguyễn Thành Long về sau tôi cứ có cảm tưởng những chuyện tưởng như đã qua ấy vẫn còn vướng vất trong anh. Anh trở nên thận trọng giữ gìn hơn trong suy nghĩ, khép nép hơn trong quan hệ với mọi người. Lại có lúc anh sinh ra hay ngờ vực và dễ hùa theo chung quanh trong cách đánh giá, dù là một cách hùa theo kín đáo. Thậm chí tôi cảm thấy ở Nguyễn Thành Long còn nảy sinh nỗi nghi ngờ chính mình. Đã có một con người khác xuất hiện để theo dõi và kiểm tra con người hàng ngày của anh, khiến anh trở nên có chút gì như là nghiệt ngã nữa. Có điều, dù phức tạp đến đâu, thì tất cả những chuyện ấy chỉ là chuyện nổi lên trên bề mặt. Ở phần sâu sắc của tâm hồn, có thể nhận ra một Nguyễn Thành Long giản dị hơn. Anh hơi ngơ ngác, không hiểu sao mọi việc lại diễn ra như thế! Nhất là anh cảm thấy đơn độc vô hạn. Mang tâm thế “kinh cung chi điểu”, có những vụ việc do người khác gây ra tội vạ đổ lên đầu ai ai kia, song chính anh cứ vận vào mình, cứ ngấm ngầm đau đớn xót xa hộ. Và cứ mang máng cảm thấy rồi lại “cháy thành vạ lây” không biết chừng! Mặc cảm chăng? Nhạy cảm quá chăng? Nói thế nào cũng được, chỉ biết là những lúc ấy, không nên hỏi Nguyễn Thành Long mà nên để anh một mình với mình. Từ nhà riêng bên phố Dã Tượng, sang cơ quan của Hội bên đường Nguyễn Du, Nguyễn Thành Long thường đi bộ qua một quãng vắng đường Trần Bình Trọng, phía cạnh cung Văn hoá Việt-Xô. Mùa hè một áo sơ mi cộc tay, mùa đông một cái áo bông tầu cũ kỹ – sau là một cái áo vỏ ngoài bằng ni lông màu tím than – Nguyễn Thành Long gần như một mình trên đường, đầu cúi xuống, bước thật chậm như chìm đắm vào những suy tưởng riêng tư. Thường nhìn thấy anh trên đoạn đường ấy, đang đi xe đạp, tôi vội phóng qua thật nhanh, không phải chỉ vì không muốn phá đi dòng suy tưởng của anh, mà là một tình cảm lẫn lộn, vừa sợ hãi vừa kính phục chợt đến với tôi – sợ vì thấy cái nghề của mình nặng nề quá, và kính phục vì trong nghề đã có những ngòi bút như Nguyễn Thành Long những người đang căng đôi vai ra để chịu đựng, và vẫn hăm hở đi tiếp. Hoá ra, trước mắt tôi, vẫn là một nhà văn do tâm huyết mà thành đau khổ. Lại nhớ một câu của Ehrenburg khi nói về mình (đại ý): “Bề ngoài, tôi trông u ám, nhưng bên trong, thật ra là một người nông nổi, nhẹ dạ”. Trong số những người rất khớp với mẫu hình kiểu ấy, ắt hẳn có Nguyễn Thành Long!

VII
Phim Hành Trình Trả Thù
Thông thường, tôi không thuộc diện được Nguyễn Thành Long tặng sách khi có sách mới in. Nhưng đến cuối 1985, cùng lúc anh cho tôi hai cuốn Giữa trong xanh và Sớm mai nào xế chiều nào. Cuốn thứ hai tôi không để ý lắm vì là sách mới viết. Nhưng cuốn thứ nhất thì khác: đây là một tập hợp những thành quả tự Nguyễn Thành Long coi là đắc ý nhất trong đời viết của mình, một thứ tuyển tập “bốn mươi năm”, như anh lưu ý trong lời đề tặng tôi. Qua trao đổi chuyện trò, tuy tác giả không nói ra trực tiếp, nhưng dễ dàng đọc được cái ý anh muốn tôi viết về nó. Tôi chấp nhận sự thách thức này, mặc dù biết đó là một việc khó.

Ít lâu sau, tôi mang tới Nguyễn Thành Long một bài viết, ở đó bên cạnh những lời ca ngợi tài năng nghị lực của anh trong việc thực hiện những yêu cầu cách mạng đặt ra đối với văn học, không quên lưu ý nhiều khi ngòi bút Nguyễn Thành Long gò gẫm thiếu tự nhiên. Thậm chí ở một đoạn tôi còn viết: “Mặc dù mở rộng lòng đón lấy mọi diễn biến của đời sống, song rút cuộc tác giả vẫn không tránh khỏi trở đi trở lại với những ý tưởng đã thành khuôn khổ, và sự chăm chú đều đều tới công việc lại dẫn tới một tình trạng đơn điệu”. Tháng 8-1986, khi bài báo được in ra trên một số báo Văn nghệ, đọc lại cả bài, tôi không khỏi băn khoăn tự hỏi không biết với một cuốn sách mang tính cách tuyển tập, mình viết vậy, có làm anh Long buồn không. Nhưng tôi vẫn nhớ là lúc cầm bản viết tay của tôi, tác giả Giữa trong xanh có một thái độ khá bình thản. Anh chỉ bảo sau cái ý “trở đi trở lại với những ý tưởng đã thành khuôn khổ”, nên thêm vào một ý nhỏ, “dù là khuôn khổ của anh”. Chỉ có thế! Chúng tôi chia tay nhau lặng lẽ, mỗi người không khỏi có chút tiếc xót rằng đáng lẽ có thể làm cho người kia vui hơn, mà không làm được.
Phim Hành Trình Trả Thù
Vốn đã âm thầm buồn bã, cuộc đời riêng của Nguyễn Thành Long từ sau 1986, nghĩa là từ sau khi anh về hưu, lại càng quạnh hiu, trống trải. Về sau cháu Hồng, con gái thứ hai của anh có kể lại, mấy năm ấy anh buồn lắm vì Sớm mai nào xế chiều nào là quyển anh viết kỹ và rất hy vọng là có dư luận, song, vẫn rơi vào im lặng, nên anh không muốn viết truyện nữa. Nghe nói Nguyễn Thành Long loay hoay làm ít trang hồi ký hoặc xoay vào việc gì nữa, nhưng đều dang dở. Một cuộc đời vất vả như thế, hậm hụi như thế, nhận thức lại được, viết lại được cho thanh thoát đâu có phải dễ! Nhà văn ý Moravia từng đặt cho một tập truyện ngắn của mình cái tựa Một cuộc đời khác, ý muốn nói là thường mỗi chúng ta đều luôn luôn bị ám ảnh bởi cái ý nghĩ lẽ ra, chúng ta phải sống khác mà sao không thể sống nổi. Tôi nhớ là khi nghe tôi nói điều ấy, Nguyễn Thành Long có một thoáng như hơi sững ra! Đang cầm chén nước, cánh tay gày guộc với lớp da rất nhiều vết mồi của anh chợt run run thêm, cặp mắt sáng lên phút chốc, nhưng rồi lại cụp xuống tăm tối. Một niềm thất vọng nào đó đang dâng lên trong anh? Hay một sự nuối tiếc? Hay một nỗi xót xa, xót cho mình là không làm được hết những điều muốn làm, nói chung là bây giờ đã muộn rồi, không thể có một cuộc đời khác? Tôi không rõ cảm giác nào là chính. Nhưng tôi nghĩ rằng trong những ngày cuối đời Nguyễn Thành Long đã sống với tất cả những cảm giác đó.
Phim Hành Trình Trả Thù
Bởi vậy, ít lâu sau trên báo Lao động tôi mạnh dạn nói rõ thêm:

“Trong cuộc đời này thiếu chi người mong thành nhà văn mà không thành. May mắn hơn họ – hay là rủi ro hơn họ, nói thế cho công bằng – có một số người suốt đời ăn chịu với nghề, sống là nhà văn và chết với tư cách nhà văn. Nhưng có bao giờ một ngòi bút chân chính thực sự yên lòng với mình? Ngoài những trang đã viết ra, cái di chúc lớn khác mà một nhà văn chân chính để lại thường là nỗi khắc khoải vì biết rằng còn bao công việc đáng lẽ phải làm, nhất là đáng lẽ mình phải viết khác kia mà tự khác đi làm sao nổi. Nguyễn Thành Long là một nhà văn chân chính với nghĩa ấy”.

Ấy là những dòng tôi viết, để vĩnh biệt anh.

Không biết có chủ quan không, nhưng tôi nghĩ lần này, tôi đã nói hộ được một phần ý nghĩ của chính Nguyễn Thành Long.

Phim Rồng Đỏ

Rồng Đỏ
Phim Rồng Đỏ 







Phim Rồng Đỏ 

Tỉnh Bình Định, mảnh đất đã nuôi dưỡng nên nhiều tên tuổi lớn trong thơ Việt Nam hiện đại, cũng là nơi chôn rau cắt rốn của Xuân Diệu. Cha đàng ngoài mẹ ở đàng trong - một cách khái quát, Xuân Diệu nói về hai cái cội nguồn làm nên đời mình như vậy. Cả hai trong tâm trí người xưa xa cách đến ngàn trùng, song sự thực là đều nằm trên mảnh đất của sự quá độ, nơi con người Việt Nam đã vượt ra khỏi cái nôi xuất phát là đồng bằng sông Hồng miền Bắc, nhưng cũng chưa đến được với sự định hình ở mảnh đất trù phú phương Nam. Cả quê nội và quê ngoại của tác giả Thơ thơ đều nằm trọn trong khúc ruột miền Trung, mảnh đất buộc con người kiên trì nhẫn nại, để đối phó với cuộc sống khắc nghiệt một bên là rừng, một bên là biển, mà cũng là mảnh đất gợi nhiều bâng khuâng thương nhớ, mảnh đất của thơ.
Phim Rồng Đỏ 
Theo các tài liệu chỉ được công bố lẻ tẻ, như một sự ngẫu nhiên đây đó, người ta biết rằng Xuân Diệu lớn lên trong một gia đình trung lưu, cụ thân sinh ra ông là một tú tài nho học, chuyển dần từ nông thôn ra thành phố. Rất tồi toán pháp, khá văn chương - nhà thi sĩ đã nói về mình không phải như một sự nhún nhường, mà như một sự thú nhận về mối duyên nợ sâu xa giữa ông với thơ. Thơ đã thu hút hết tâm trí ông, khiến tuổi trẻ ông có thêm một cái đích. Chân trời là mấy tờ tạp chí như Hữu thanh, như Annam tạp chí, niềm vui là làm được ít bài thơ; mọi chuyện nghe quá tội nghiệp. Nhưng trời sinh là thế, tất cả những gì đã đến trong tuổi nhỏ Xuân Diệu không ít thì nhiều, đều có liên quan đến cái nghề mà ông sẽ sống chết trong suốt cuộc đời.

Ta hãy hình dung lại tình hình đất nước: khi Xuân Diệu lớn lên và ra học tú tài ở Hà Nội. Sau những thể nghiệm trong những năm đầu thế kỷ, nay là lúc xã hội Việt Nam chuyển hẳn sang mẫu hình hiện đại. Người ta đua nhau mở hiệu buôn, làm đại lý cho các hãng buôn tận bên Tây, rồi đóng tàu chạy đường biển, rồi khai mỏ, mở nhà in… Tất cả gặp nhau trong một ý nghĩ: cái gì mà người phương Tây đã làm, đang làm, thì mình cũng phải làm được và sẽ làm đến nơi đến chốn. Trong lĩnh vực đời sống tinh thần cũng có tình trạng như vậy. Một lớp người mới bước vào nghề: Nhất Linh, Khái Hưng, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư v.v… So với thế hệ Tản Đà hoặc Phạm Duy Tốn, họ có chỗ khác: Tây học thấm vào họ từ khi còn ngồi trên ghế tiểu học. Sách báo phương Tây là cái mẫu hình mà họ thấy không có cách nào khác hơn là phải noi theo. Với những bài thơ táo bạo sau này sẽ in trong Thơ Thơ, Xuân Diệu còn như là muốn chứng tỏ: lối nói, lối xúc cảm của những Rimbaud, Verlaine… không có gì xa lạ với người mình. Trong phạm vi ngôn ngữ dân tộc cho phép, người làm thơ vẫn có thể trình bày hết những ý tưởng đã đến trong tâm trí con người Việt Nam hiện đại.
Phim Rồng Đỏ 
Nếu sự nhạy cảm và nói chung là toàn bộ năng khiếu đã đưa Xuân Diệu đến với sáng tác văn học thì ý chí lập nghiệp sẽ là yếu tố bảo đảm cho ông thành công. Đã mang tiếng ở trong trời đất – phải có danh gì với núi sông - mấy câu thơ ấy của Nguyễn Công Trứ luôn vang bên tai ông như lời tự nhủ. Trong khi những người khác coi văn chương là một việc tài tử, vui làm, chán bỏ được chăng hay chớ, thì Xuân Diệu sẵn sàng đánh vật với công việc bởi ông hiểu rằng đấy là cuộc sống thật sự của mình. Báo Ngày nayvà nhóm Tự lực đang nổi lên như cồn, gần như làm chủ văn đàn ư? Thì ông sẽ tìm được cách để được coi như một thành viên trong nhóm! Làm thơ không sống nổi, thơ là thứ không thể lấp đầy một tờ báo, phải biết viết tin, viết truyện ngắn ư? Thì Xuân Diệu sẽ học để làm được tất cả những cái đó, văn xuôi của ông trong Phấn thông vàng là một thứ văn xuôi độc đáo không giống bất cứ ai khác. Tiểu luận Xuân Diệu hồi ấy đã có giọng riêng, không ai có thể bắt chước. Trong số các nhà văn tiền chiến, Xuân Diệu là một trong những ngòi bút mang chất nhà nghề rõ rệt nhất. Chất nhà nghề đó bộc lộ ở thói quen chịu thương chịu khó “nhận tất cả mọi việc về nghề văn”, nhận đủ các loại com-măng, rồi việc to cũng như việc nhỏ đều làm hết lòng, làm ở trình độ hiện đại, vừa bám sát yêu cầu của khách hàng, vừa mang rõ dấu ấn riêng, để có thể đề vào đó mấy chữ “made in Xuân Diệu” mà không sợ mang tiếng gì hết.
Phim Rồng Đỏ 
Tuy nhiên, cũng phải nhận rằng trong sự chuyên nghiệp hoá sớm sủa này lớp người viết báo viết văn tự tố cáo ở mình một chỗ yếu khác: họ không có cơ sở vững chắc. Họ không phải là tầng lớp quý tộc của xã hội. Một câu thơ nổi tiếng của Xuân Diệu thường được nhắc nhở để chứng minh đầu óc thực tế nơi ông Cơm áo không đùa với khách thơ, bản thân nó cho thấy điều kiện khó khăn của giới cầm bút: họ không được xã hội nuôi nấng đàng hoàng. Làm sao mà họ nghĩ ngợi được gì cho kha khá một chút – siêu hình một chút, trừu tượng một chút – trong khi những vấn đề cơm áo hàng ngày cứ đeo đẳng nơi họ?!

Thiếu đi cốt cách quý tộc, cái ý chí lập nghiệp nói ở trên, lớp trí thức thuộc địa lúc ấy chỉ còn là những con người lao động trí óc để kiếm sống với trăm ngàn day dứt trong người, và cái sự nghiệp mà người ta ước ao, suy cho cùng, cũng chỉ tương xứng với tầm vóc người ta vốn có.

Từ đầu 1940, Xuân Diệu tạm bỏ thi đàn đi làm nhà đoan ở Mỹ Tho, để lấy tiền giúp người bạn thân mến của mình là Huy Cận có tiền theo học Canh nông. Năm 1943, Huy Cận thi đỗ, có lương thì Xuân Diệu lại quay về Hà Nội. Nhưng chỉ mới có mấy năm mà Hà Nội đã khác hẳn. Đời sống văn học khảng tảng rõ rệt. Không ai còn hết lòng yêu mến văn chương như hồi nào. Nhóm Tự lực văn đoàn lúc này đã gần như tan tác. Không phải quá lo lắng về cái ăn cái mặc, song con người trí thức trong Xuân Diệu, Huy Cận lúc này lại rơi vào cuộc khủng hoảng mới: Khủng hoảng trong đời sống tinh thần. Về sau, Xuân Diệu thường vẫn nhớ lại một buổi chiều rét mướt ngồi vá áo cũ, trên một căn gác ở phố Hàng Bông. Sự cô độc lúc này đã lên đến tột cùng, song nó không có cái vẻ sang trọng như thường thấy trong Thơ thơ, mà đây là một sự cô độc rất trần thế, nó đi liền với cảm giác hoang mang vô vọng.

Từ những năm tháng cùng quẫn này của Xuân Diệu, người ta lại càng thấy rõ một cái gì như bức chân dung đích thực của giới trí thức Việt Nam thời Pháp thuộc: dù có học theo tinh thần của văn hoá Pháp, song chưa bao giờ họ trở thành những con người có tầm vóc, có cốt cách, như những V. Hugo của thế kỷ trước, hoặc R. Rolland, A. France ở thế kỷ sau này.

Hoặc là họ sớm bỏ đi làm chính trị như trường hợp Nhất Linh, Trần Trọng Kim (và trước đó, cả Phạm Quỳnh, đầy tâm huyết mà cũng đầy tội lỗi).

Hoặc là họ sống lêu lổng vạ vật, những gì có thể làm thì đã làm rồi, còn làm tiếp ra sao thì không biết, nên cầm bằng cho gió bay đi, tự buông thả trong thở than đau xót. Một Nguyễn Bính tài hoa chính là hình ảnh của đám thi nhân lêu lổng vạ vật đó.

Trong chừng mực nào đó, có học hơn, giữ gìn hơn, song Xuân Diệu cũng không tránh được bế tắc.
Phim Rồng Đỏ 
Thật dễ hiểu là khi Cách mạng tới, Xuân Diệu đã đón nhận với rất nhiều hào hứng và bắt tay vào làm mọi công việc mới mẻ do Cách mạng giao, chẳng khác gì những anh em từng hoạt đông trong bóng tối. Có lúc, trong cơn say sưa Xuân Diệu đã đi tới những ý tưởng nông nổi. Chẳng hạn, đọc lại Tạp chí Tiên phong số ra 19-8 -1946, người ta thấy có bài Văn hoá Việt Nam sẽ không đi theo nấm mồ văn hoá Pháp, trong đó, Xuân Diệu nhận xét một cách hàm hồ: “Thơ ca của Pháp thì hết nhựa rồi” “Tiểu thuyết của Pháp mới là lèo tèo” “Văn hoá Pháp sang thế kỷ hai mươi (…) vất vưởng như không có địa bàn”. Những người có quen biết Xuân Diệu chắc không lấy làm lạ việc làm ấy: Sự bốc đồng nhẹ dạ của tác giả Thơ thơ, đã thành căn bệnh mãn tính.

Tuy nhiên, về căn bản phải thấy Cách mạng đã giúp Xuân Diệu ra khỏi một cuộc khủng hoảng và với khí thế của một ngưòi chưa đầy 30 tuổi, ông như bắt đầu một cuộc tái sinh.

Hào hứng đón cái mới, cái lạ của Cách mạng, rồi sẽ có lúc, trong kháng chiến, Xuân Diệu không khỏi ngao ngán, mệt mỏi trước cuộc sống của rừng núi, và dù đã tự kiềm chế hết mức, vẫn phải thốt lên: Sớm nay ra cửa u tì quốc/ Một chiếc xe mau đạp giữa đường.

Song chỉ đến thế! Sa chân lỡ bước, như cánh nhà văn dinh tê, thì không bao giờ. Không có sự may mắn ngẫu nhiên nào ở đây cả. Sự sống ở Xuân Diệu, thường khi là bao gồm một lý tính khá chắc chắn, Xuân Diệu không phải loại nghệ sĩ buông thả, tụ bạ, tự hạ thấp mình vì một chén rượu, một điếu thuốc. Đấy là một phần. Tuy nhiên, lý do sâu sắc hơn, còn là khả năng cam chịu, nín nhịn nó là cái nét quán xuyến trong cuộc đời Xuân Diệu. Chính sự biết điều này đã giữ Xuân Diệu lại, dù thoạt nhìn, người ta không thể tưởng tượng được là ông giỏi chịu đựng đến thế. Ăn chịu với kháng chiến tám năm ròng, rồi Xuân Diệu sẽ hiểu rằng từ nay, đời mình chỉ có một phương hướng duy nhất:

Lên non, em cũng theo lên
Phim Rồng Đỏ 
Xuống bể, em cũng ngồi bên mạn thuyền

Nam Chi, một nhà nghiên cứu sống xa quê hương, từng nhận xét một cách thân tình về sự chuyển hướng của Xuân Diệu sau 1945: “Xuân Diệu đã cướp một mâm tiệc Bồng Lai đem về làm một bữa cơm trần thế, cho những người ăn vì cần ăn chứ không phải ăn cho vui miệng. Thơ Xuân Diệu ngày xưa là áo gấm, thơ Xuân Diệu ngày nay là manh áo nâu sứt chỉ đường tà”. Chi phối bước đi của Xuân Diệu trên phương diện thi ca, cái hướng mà Nam Chi nói ở đây quả thật với một trí thức như Xuân Diệu là một bước rẽ ngoặt, một cuộc cách mạng.

Cuộc Cách mạng như vậy đến với người làm thơ một cách từ từ không gây ra những đảo lộn có tính chất đứt gẫy mà nó chỉ yêu cầu một sự thích ứng mỗi ngày một ít.

Mặt khác, Cách mạng luôn luôn có sự đền đáp, sự thưởng công thích đáng. Trong xã hội mới người nghệ sĩ không thuộc ngạch bậc nào người nghệ sĩ có vẻ như đứng ngoài mọi sự sắp xếp thứ bậc song nói chung họ được coi trọng. Đi kèm với danh hiệu cao quý là một sự đãi ngộ đáng kể đến mức một người hay tính toán như Xuân Diệu không cảm thấy mình bị thiệt.

Chẳng những thế, đồng thời với việc thiết lập một trật tự mới trong đời sống thì một trật tự mới cũng được lập nên trong hàng ngũ những văn nghệ sĩ, những trí thức, và trong cái hệ thống mới hình thành này, Xuân Diệu luôn luôn có được những vị trí tốt đẹp.
Phim Rồng Đỏ 
Thử điểm lại một số công việc mà Xuân Diệu đã làm từ sau Cách mạng:

- 1945: Tham gia Văn hoá cứu quốc. Làm tạp chí Tiên phong. Trở thành Đại biểu quốc hội.

- 1947: Giữ mục Tiếng thơ của Đài tiếng nói Việt Nam

- 1948: Tham gia thành lập Hội Văn nghệ.Có chân trong thường vụ Hội; cùng với nhiều cốt cán khác của Hội lúc ấy như Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài… làm tạp chí Văn nghệ.

- 1954-1956: Biên tập viên của Văn nghệ, lúc này khi trở về Hà Nội đã trở thành tuần báo (cùng với Văn Cao – Tế Hanh – Bùi Hiển – Nguyên Hồng – Tú Mỡ – Chu Ngọc – Sĩ Ngọc – Nguyễn Đình Thi lập nên một danh sách vàng, một ban biên tập mạnh trong lịch sử tờ báo này).

- 1957-1963: Làm Văn nghệ, lúc này lại là một tạp chí ra hàng tháng.

- 1969-1976: Làm tạp chí Tác phẩm mới, chức danh Phó Tổng biên tập



Trong hồi ký viết về Nguyễn Huy Tưởng, Xuân Diệu tự nhận mình luôn luôn thích làm phó cho người khác. Làm phó thì trách nhiệm không nặng lắm, không phải đương đầu, mà mọi việc vẫn có mặt. Vai trò của cấp phó trong cơ quan, như vai trò người đàn bà trong gia đình, tần tảo lam làm, chính cái đó là hợp với Xuân Diệu. Vừa có ý thức, vừa tự nhiên khéo léo, gần như là vô tình, vô ý thức, ông tạo cho mình cái cốt cách mà người nghệ sĩ lúc này cần có: cốt cách một người lao động. Nhìn lại hơn 40 năm cuối đời của Xuân Diệu người ta thấy ông đã lao động không mệt mỏi. Luôn luôn ông tìm thấy việc để làm và giá có được phân công làm gì thì cũng mang vào đấy cả sự tính toán kỹ càng vốn có. Thơ giờ đây được ông xem như một ngành sản xuất, với tiến độ, nhịp độ mức tiêu thụ nguyên liệu và mức ra sản phẩm… rành rọt. Để biện hộ cho các bài thơ phục vụ kịp thời, ông nêu lên lý luận về thơ thực tế, xem đó là cả một hướng tìm tòi nghiêm chỉnh. Nhưng chỗ mạnh của mình là thơ tình thì ông vẫn nhớ! Biết rằng trước sau xã hội sẽ cần loại thơ riêng tư ấy, ông khai thác những vui buồn trong cuộc đời riêng một cách triệt để, làm sẵn thơ tình rồi công bố dần. Ông lại có ý thức tổ chức sao cho các bài thơ đó bổ sung cho nhau, nối tiếp nhau, tiến tới làm ra một thứ mà ông ước tính nên gọi làtừ điển tình yêu, những cặp trai gái khi cần sẽ có cái để tra cứu từ A đến Z. Nhưng không ở đâu cái khao khát làm mọi thứ cho “ra tấm ra món” của Xuân Diệu bộc lộ rõ như khi ông viết tiểu luận. Sau những thành công trong việc đột phá vào sáng tác của Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương, ông sớm hiểu rằng đây là khu vực làm nên sự nghiệp cuối đời của mình. Công cuộc khai thác được ông lên kế hoạch đâu vào đấy, ở đó, không có chuyện thú hay không thú, hợp gu hay không hợp gu, ở đó là sự đào cùng tát cạn, là xúc từng mảng, từng mảng… Số lượng trang viết trở thành nỗi ám ảnh thường xuyên trong đầu óc Xuân Diệu. Ông hể hả nhìn lại số đầu sách đã ra, số trang đã viết, cũng như hể hả ghi vào sổ tay số lượng những cuộc bình thơ, nói chuyện thơ, số lần được mời làm chủ khảo chấm thơ – cái tâm lý rất trần tục ấy là một trong những dấu hiệu chứng tỏ cách cảm cách nghĩ của người lao động đã thấm hẳn vào Xuân Diệu. Trong lời tựa Thơ thơ ngày nào, Thế Lữ từng sớm chỉ ra rằng Xuân Diệu rất quyến luyến cõi đời, tấm lòng trần gian của ông rất nặng. Nay, trong cốt cách của người lao động, nhà thơ mới bộc lộ hết mình, tấm lòng trần gian ấy mới thật hiện ra với cái vẻ trần trụi và thông tục của nó. Dẫu sao, Xuân Diệu cũng đã đạt được cái điều mà ông mong muốn, và cũng chỉ được có thế.
Phim Rồng Đỏ 
Sự sống chẳng bao giờ chán nản

Trong những ấn tượng mà con người và thơ Xuân Diệu để lại trong lòng đồng nghiệp và bạn đọc (thậm chí ngay những người gặp một lần cũng có thể nhận ra ngay), có một ấn tượng rõ rệt không ai quên nổi, đấy là lòng yêu đời và ham sống của tác giả Thơ thơ. Sớm thấm nhuần nền văn hoá phương Tây, Xuân Diệu nhìn đời như một cái gì trôi chảy mà mình không thâu tóm, thì nó sẽ bay biến. Từng biểu hiện nhỏ của cuộc sống được ông chắt chiu góp nhặt. Thấy cái gì mới cũng hồi hộp, nhận được cái gì cũng biết ơn, và làm được cái gì thêm cho đời, ông cũng sẵn sàng. Giả sử ngồi bên mâm cơm cạnh tác giả, ta sẽ thấy ở Xuân Diệu vừa có cái sung sướng của trẻ nhỏ, thấy cái gì cũng ngon cũng bổ cũng muốn ăn thêm một chút, để cho khoẻ cho lớn thêm, lại vừa có cái lý lẽ của người đọc sách nhiều, sành ăn, biết ăn như thế nào thì đủ chất và có lợi cho cơ thể mình nhất. Xuân Diệu đã nâng chuyện ăn uống lên thành một phương diện của đời sống, và đối xử với cái phương diện mà mọi người thường cho là phàm tục và bỏ qua ấy một cách cẩn trọng, cẩn trọng vô cùng, chứ không bao giờ xem thường coi nhẹ. Tôi nhớ một bài ký, Xuân Diệu viết sau một đợt lên Mèo, ở đó, ông tả cảnh người ngồi ăn giữa chợ rất sảng khoái. Lúc đầu đọc thấy thô thiển, khó chịu; sau hiểu ra, thấy Xuân Diệu là thế, Xuân Diệu thi sĩ thường bắt đầu nói về cuộc sống từ cái nhỏ nhặt.
Phim Rồng Đỏ 
Mà chẳng cứ trong chuyện ăn uống: hình như làm được điều gì, để chứng tỏ là mình đang sống, Xuân Diệu cũng đều sẵn sàng bỏ công ra làm. Theo khoa học, sự sống tồn tại nhờ hai quá trình đồng hoá và dị hoá. Đồng hoá là hấp thụ tiếp nhận, làm cho mình giàu thêm. Và dị hoá tức là mang cho, bộc lộ ra ngoài, đưa ra, thải ra những gì đã tiêu hoá sau khi tiếp nhận, để rồi tạo một khoảng trống mà tiếp tục đồng hoá nữa. Một cơ thể sống như Xuân Diệu là một cơ thể đồng hoá và dị hoá được tiến hành đều đặn, mạnh mẽ, không ngừng không nghỉ. Như là trong sáng tác. Đọc sách ngốn ngấu, phăm phăm đạp xe đi thực tế, ghi chép, gạn chắt lấy từng chi tiết nhỏ. Rồi về, là trả nợ, là hùng hục viết – một thời gian dài, ngày tháng của Xuân Diệu xoay quanh cái quy trình khép kín đó. Không ai hay nói đến sự thiêng liêng của việc làm thơ viết văn như ông nhưng cũng không ai biết biến thơ thành công việc hàng ngày, làm một cách đều đều, một cách máy móc, một cách phàm tục như ông (chả thế có lần nhìn Xuân Diệu ngồi làm thơ, Trần Đăng Khoa đã bảo rằng cha mình ở nhà quê đi cày cũng không vất vả đến như thế). Chưa hết. Sau khi đã làm xong một khối lượng công việc khổng lồ (khối lượng của một viện hàn lâm, ý của Tố Hữu) lại còn phải lo đăng tải, giới thiệu, liên hệ với người này để in, nhận lời người kia đi nói chuyện, làm sao cho thiên hạ “mục sở thị” cái tài đô lực sĩ của mình nữa chứ.

Một cách tự nhiên Xuân Diệu nhẫn nại tự mình hết lòng lo toan những việc đó, để có dịp xuất hiện.

Về già Xuân Diệu còn giữ được bản nháp những bài thơ đầu tiên, xoá dập rất ghê. Theo sự nhớ lại của tác giả, lần ấy, cũng như nhiều lần về sau, cái mạnh nhất ở ông là ý muốn làm thơ, là cái khao khát được viết ra, và hãy viết ra đã, viết bằng văn xuôi trước, rồi sắp xếp sau. Suốt đời Xuân Diệu ham hố vậy.
Phim Rồng Đỏ 
Xuân Diệu xa lạ với loại nghệ sĩ rạc dài, nghệ sĩ lang thang sống đến đâu hay đến đó, chỉ sống bằng cảm hứng thất thường sau những chuyến giang hồ vặt, rồi tồn tại theo kiểu tầm gửi trông cậy vào lòng tốt của những Mạnh Thường Quân nào đó: so với họ Xuân Diệu là một loại khác. Ông cẩn thận hành nghề, chi chút chăm lo tài năng bản thân. Nghề viết, đối với ông, không thể là một quá trình tự phát. Ngược lại phải làm sao huy động hết tiềm năng để đạt tới hiệu suất cao nhất. Phải chăm chỉ chuẩn bị, dè sẻn sử dụng sức lực, để lúc có thời cơ, đi thật nhanh tới mục đích của mình. “Sau khi phấn đấu trong từng công việc cụ thể, người ta còn cần biết tập trung sức lực tạo nên những thành quả đích đáng như năm ngón tay dồn lại thành một quả đấm”. Xuân Diệu đã nói điều đó với bao người, kể cả người viết bài này và chúng tôi hiểu đó là những điều gan ruột, Xuân Diệu rút ra từ mấy chục năm làm nghề của mình. Khoảng 1980, có lần, ở Hà Nội, Xuân Diệu đến nhà tôi vào lúc bốn giờ rưỡi chiều.

- Đã mất công đạp mấy cây số xuống đây sao anh không đến sớm một chút, anh em mình ngồi nói chuyện chơi?

- Chiều vừa đi làm việc với một bạn nhà văn Hung; tối, lại phải ngồi viết một bài bút ký để sáng mai nộp cho Đài. Thế cậu bảo không đến thăm vào lúc này thì để đến bao giờ?

Lại như cái lần tôi đến nhờ Xuân Diệu dịch một đoạn tài liệu cho cuốn Mười nhà thơ lớn của thế kỷ, do Nguyễn Quân và tôi cùng biên soạn. Thực ra một mẩu vặt như thế này, chả bõ bèn gì đối với một nhân vật đã có đến vài chục đầu sách như Xuân Diệu. Nhưng hình như vì cuốn sách có cái tên thú vị quá, nên Xuân Diệu vẫn muốn góp cho nó một chút công sức bé nhỏ. Ông hỏi tôi kỹ lưỡng yêu cầu số chữ và hẹn giờ đến lấy. Và khi theo lời hẹn tôi đến tận nơi lấy bài, thì Xuân Diệu cũng chỉ vừa mới làm xong. Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên là cái tập hồ sơ Xuân Diệu có trong tay. Đã viết về bất cứ ai, Xuân Diệu đều để công làm tài liệu đến mức tối đa. Sự tài tử, sự linh hoạt, cái bột phát trong ý kiến của con người này thật không làm ai lạ lùng. Cái lạ là chính sự công phu của con người có thừa lý do để sống và viết tài tử đó.
Phim Rồng Đỏ 
Đến như sự cày xới của Xuân Diệu trên từng trang thơ của các tác giả cổ điển thì chúng tôi lại càng vì nể. Với một tác phẩm nhưTruyện Kiều, hầu như bất cứ nhà văn nhà thơ nào của chúng ta cũng viết được vài trang. Nhưng riêng về Kiều và Nguyễn Du viết được mấy trăm trang sách, trong đó có những bài bàn sâu về từng chữ trong Kiều như Xuân Diệu đã làm, đâu có phải dễ.

Nhân một lần đi công tác với Xuân Diệu, tôi đánh bạo hỏi:

- Trước anh không biết chữ Hán, vậy làm thế nào?

- Cứ học dần. Và nhất là đọc thật kỹ. Các bậc tú tài cử nhân hay chữ đã làm đầy đủ công việc của họ; mọi chữ khó đã được cắt nghĩa rồi. Mình chỉ chọn lọc và phân tích thêm thôi.

Hoá ra, lại cái phương châm cũ của Xuân Diệu: không sĩ diện. Mạnh dạn hút lấy tinh hoa của người khác. Như trong làm thơ, biết nhặt từng câu nói vương vãi hàng ngày, tự nó đã mang ý thơ rồi đưa vào bài của mình. Như trong viết báo, biết trích dẫn và thuật lại các chi tiết một cách khéo léo, đến nỗi có khi người đọc đọc qua ở đâu đó rồi, đọc lại vẫn thấy mới. Giá ai bảo, chúng ta còn có thể không tin. Nhưng chính Xuân Diệu đã tự nhận như vậy cơ mà! Con người khá giàu có đó như luôn luôn giơ tay lên cả cười mà nói với chúng ta:
Phim Rồng Đỏ 
- Các anh nghèo vì các anh quá hoang toàng. Còn tôi, tôi chỉ hơn các anh ở chỗ tôi không bỏ phí gì hết.

Đi đến cùng trên con đường đã chọn, con đường ham bộc lộ, ham xuất hiện, nhiều khi Xuân Diệu hiện ra như một người mà ở nông thôn thường được gọi là tham lam càm quắp nghĩa là bất chấp lẽ thường, cốt có mặt và đòi bằng được cái phần của mình.

Sau khi Thơ thơ in ra lần đầu 1938, nhà phê bình Trần Thanh Mại, nhân danh một con người có theo dõi tài năng của Xuân Diệu từ khi còn trứng nước, không quên để ý đến bài thơ Mười chữ:

Mưa dầm – thu dưới nguyệt

Máng chảy – suối trên nhà

    I Miss You



    I Miss You
    I Miss You 2012

     I Miss You
    Trần Thanh Mại bảo mấy câu thơ này không hay, mà lại có phần sáo. Rồi nhà phê bình tìm cách cắt nghĩa sự có mặt của nó trong tập:

    “Đời xưa và cả đến đời nay cũng vậy, có nhiều nhà trưởng giả có một tập quán quái gở lắm: răng họ rụng ra, họ đem gói gắm cất kỹ, móng tay họ cũng thế. Không phải vì họ mê tín, sợ khi chết về âm phủ, không đủ răng mà nhá hay không đủ móng tay mà gãi. Chỉ vì họ quá yêu họ đi! Vật gì trong người họ lìa ra khỏi, là họ không nỡ bỏ rời, bỏ rớt, bỏ tồi, bỏ tàn. Chỉ thiếu chút nữa là họ cất cả những vật thường ngày họ đi tiện ra mà thôi!
     I Miss You
    Ông Xuân Diệu cũng gần như mấy nhà trưởng giả ấy. Chỉ vì ông quá tiếc một vật mà óc não ông đã cấu tạo ra nên ông không nỡ bỏ đi, mặc dầu nó chỉ gồm có mười chữ. Mười chữ sáo!”(*)

    Lời mỉa mai có thể là hơi nặng. Song nét tâm lý Trần Thanh Mại miêu tả là có thật. Trong khi bảo rằng tâm lý tham lam kiểu Xuân Diệu không phải là không phổ biến, nhà phê bình đã gọi đúng căn bệnh: “Chỉ vì họ yêu họ quá”. Chúng ta dự đoán đọc đến chỗ này, Xuân Diệu chắc cũng phải cười khà “Chịu thầy, chịu thầy!”. Còn ai yêu mình hơn Xuân Diệu nữa!

    “Chết nhưng nết chẳng chừa”, rồi Xuân Diệu sẽ giữ mãi cái tính ấy, chẳng bao giờ thay đổi cả.

    Ngay từ 1958-1960, đọc một số tiểu luận của Xuân Diệu được in ra hồi đó như Những bước đường tư tưởng của tôi, Ba thi hào dân tộc, một thanh niên mới lớn như tôi đã ngạc nhiên nhận ra một chỗ lạ đập ngay vào mắt, là các quyển sách ấy, thường có mụcCùng một tác giả, đặt ngay ở đầu sách – một điều tôi chẳng bao giờ thấy ở sách của các tác giả cũng nổi tiếng khác, như Tô Hoài và Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Tuân và Tố Hữu. Cùng với thời gian, bảng kê này ở sách Xuân Diệu ngày một kéo dài ra, và chữ ngày một nhỏ bớt đi, chúng tôi đọc, có lúc vui vui, vì thấy lao động của Xuân Diệu được ghi nhận rõ ràng – cái ý thức tác giả ở con người này thật không thể xem thường; song cũng không khỏi có lúc thầm nói với nhau: sao nhà thơ yêu quý của mình háo danh thế.
     I Miss You
    Trong cách nhìn đời của nhiều tác giả có cốt cách, thường khi người ta bắt gặp không ít thì nhiều một sự bất mãn. Bởi họ có quan niệm riêng về cuộc đời. Khi thấy thực tế chung quanh không diễn ra như mình nghĩ họ đau đớn, dằn vặt và thường tìm cách không để cho cái ô trọc của đời thấm vào mình.

    Không nói đâu xa, ngay ở một vài nhà thơ đương thời của Xuân Diệu và không thành đạt như Xuân Diệu – chúng tôi muốn nói tới Trần Huyền Trân, Thâm Tâm… – hình ảnh nhà thơ hiện lên qua các sáng tác là hình ảnh một người giữ bằng được sự độc lập của ngòi bút, chống lại thói hùa theo đời, cho đến nhịp thơ của họ cũng không chịu thuận theo cái đều đều hoà hợp của thói đời mà mang nhiều ngang trái nghịch phách.

    Xuân Diệu không thế. Trong đời sống hàng ngày Xuân Diệu có thể xoay xoả vòi vĩnh trước sự đối xử xô bồ của chung quanh, ông cũng giận dỗi, cáu gắt. Nhưng trong thơ – là cái phần tinh tuý nhất của một con người – thì hoàn toàn không. Trước sau, tức là cả khi mới bước vào đời, lẫn khi đã có tuổi rồi, chuẩn bị bước vào cõi âm vô cực của cuộc đời này, ông chỉ có một điều nói đi nói lại:
     I Miss You
    - Tôi xin cảm tạ cuộc đời

    - Đời đáng sống, muôn ngàn lần đáng sống.

    Hình ảnh nhà thơ hiện lên qua các tác phẩm là hình ảnh một người thèm khát, chân tay lúc nào cũng luống cuống chỉ mong làm được một điều gì đó cho vừa lòng đời, và mong đời đừng quên mình. Ôi! sẽ đau đớn làm sao, nếu trong bữa tiệc đời muôn vàn hào hứng ấy, mình lại không được có mặt.

    - Uống xong lại khát là tình

    Gặp rồi lại nhớ là mình với ta.

    Cái sự tham lam thèm khát như thế này không chỉ đặc trưng cho Xuân Diệu trong quan hệ tình ái, mà là đặc trưng cho toàn bộ cảm quan đời sống của Xuân Diệu nói chung.

    Trước mắt nhà thơ, cuộc đời thường khi tròn đầy viên mãn:
     I Miss You
    … Trăng từ viễn xứ

    Đi khoan thai lên ngự đỉnh trời tròn

    Mà vận mạng con người thì bấp bênh và nhỏ nhoi không nơi bấu víu:

    Em sợ lắm, giá băng tràn mọi nẻo.

    Lời thú nhận tội nghiệp này có lẽ là cơ sở để nảy sinh cái cảm giác thường trực ở Xuân Diệu “sát hơn nữa, thế vẫn còn chưa đủ”.

    Đi ra chợ chọn mấy quả cam, nhận gói kẹo người khác biếu, Xuân Diệu cũng tìm cách nâng nó lên thành một việc có ý nghĩa của đời. Mà đã gọi là việc đời thì “trân trọng muôn vàn, muôn vàn trân trọng”.
     I Miss You
    Một hiện hữu khác của lòng yêu cuộc sống, là Xuân Diệu rất… ngán cái chết.

    Nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh cho biết, có lần ông được tác giả Thơ thơ cho xem một bài làm từ năm 1934. Bài thơ 18 đoạn mỗi đoạn 8 dòng đó mượn chuyện than thở cho mấy người chết trẻ để bảo rằng: Khi chết người ta rơi vào cô đơn hoàn toàn. Bạn quên, những cô gái quên; anh em cốt nhục cũng quên. Chỉ mẹ cha nhớ nhưng mẹ cha già cũng chết.

    Nhớ các anh hoài chỉ mẹ cha

    Song tro tàn lạnh không còn lửa

    Rồi đèn mờ tắt thế là thôi

    Không một người thương ở cõi đời
     I Miss You
    Kết luận cái chết càng đáng ghê sợ, nếu như người chết đó không để lại dấu vết gì.

    Và đây một sự kiện nhiều người được chứng kiến: ấy là cái thảng thốt của Xuân Diệu khi được báo là Nguyên Hồng qua đời. Nhân đây, Xuân Diệu định nghĩa về cái chết: Nó mạnh vô cùng. Nó biến người ta từ dương vô cực thành âm vô cực.

    Gộp cả hai mẩu chuyện này lại, chúng ta thấy trước sau Xuân Diệu vẫn là mình. Cách hiểu về sự sống lúc trẻ thế nào, lúc trưởng thành vẫn vậy. Kể ra ở chỗ này chúng ta có thể tranh cãi với Xuân Diệu: Rằng sự sống kia cũng có năm bảy đường, có sự sống cao cả và sự sống loàng xoàng. Rằng chết không phải là tiêu diệt tất cả, mà cái sống cũng không phải là có sức mạnh vô địch. Có những người chết ngay khi đang sống. Có những sự sống kéo dài lê thê vô ích, không khác gì cái chết. Chỉ có luôn luôn làm mới cuộc sống của mình luôn luôn bắt đầu lại, nhận thức lại, người ta mới có một cuộc sống có ý nghĩa thật sự. Và chỉ có luôn luôn đạt đến sự hoàn thiện, sự thanh lọc – một cái gì giống như sự hư vô – người ta mới có được sự sống vĩnh viễn… Giá như Xuân Diệu đi tới một quan niệm gần với phương Đông như thế, không chừng trang viết của ông sẽ khác đi! Nhưng mỗi người chúng ta như thế nào là do một chương trình có sẵn, muốn làm sao được.



    Nhẫn nhịn như một cách sống

    Trong một tiểu luận mang tên Những bước đường tư tưởng của tôi (1958), Xuân Diệu kể: ông là con một ông đồ nho nghèo, đã đỗ tú tài, từ nông thôn chuyển ra thành phố dạy học và khá giả dần lên. Một chi tiết có ý nghĩa quan trọng hơn: ông là con vợ bé. Điều oái oăm ở đây là cho tới lúc ông lớn lên, má ông vẫn ở với bà ngoại, còn Xuân Diệu cũng như người em trai là Tịnh Hà thì ở với đại gia đình, tức bố (mà ông gọi là thầy) và vợ cả của bố (mà ông gọi là mẹ). Bên ngoại cách bên nội độ vài cây số; lâu lâu, bà má tội nghiệp mới được phép đến thăm hai cậu con trai, mà cũng chỉ đứng ngoài cửa, chứ không vào nhà; rồi lại lâu lâu, hai cậu con trai lại trốn về thăm má, thăm ngoại, cho đỡ nhớ thương.
     I Miss You
    Như các nhà tâm lý học từng quả quyết, tính cách một con người được hình thành chủ yếu lúc ấu thơ, khoảng trước 5 tuổi, và ở đấy, những dữ kiện trong đời sống gia đình có ý nghĩa bao trùm. Tình thế “con vợ bé” nói trên đã nhào nặn nên một khuôn mặt tâm lý đặc biệt ở Xuân Diệu – ông dễ thương người, trong ông thường có những nỗi buồn vô cớ, hậu quả của những giây phút không biết làm gì và không tìm thấy tình cảm ở những người chung quanh. Luôn luôn cảm thấy cái bơ vơ của mình truớc thiên nhiên và trước cuộc đời, thường một con người như vậy hay mếch lòng, dễ bị tổn thương, nhưng lại cũng biết thông cảm với những đau khổ không đâu của người khác.

    Trong văn học Trung Hoa cũng có một nhân vật nổi tiếng với những xúc động vẩn vơ không thể cắt nghĩa nổi và Xuân Diệu thường viện dẫn để nói về mình. Đó là Lâm Đại Ngọc trong Hồng lâu mộng. Người con gái này mồ côi, đơn độc trong tình cảm, lại yếu, nên càng mau nước mắt. Sự thương cảm cho mình, cho đời ở cô đã lên đến mức một căn bệnh. Có lần buồn quá, cô nhặt hoa mang vùi một đống, xong lại sụt sịt: Chôn hoa người khóc ngẩn ngơ – Đến khi ta chết, ai là người chôn? Những giây phút Lâm Đại Ngọc kiểu ấy Xuân Diệu không thiếu. Có những tình cảm chỉ ngẫu nhiên thoáng qua mà thi sĩ cứ thấy như là có duyên nợ riêng, chẳng hạn mấy lần, được chứng kiến bọn nhỏ tí khóc lần nào ông cũng như chôn vào ruột. Bởi nghịch cảnh đã dấy lên trong lòng ông một nỗi lo sợ, cảm thấy sự sống ở chính mình rất mong manh, không ghì chặt lấy, không chăm sóc giữ gìn, thì sẽ mất đi nhanh chóng. (Ông dã kể tỉ mỉ trong Những bước đường tư tưởng của tôi).

    Theo sự quan sát của các nhà nghiên cứu văn học phương Tây, tâm thế thi sĩ có nhiều nét đồng nhất với tâm lý của loại người quá nhạy cảm và không tìm thấy chỗ đứng của mình trong xã hội. Đại khái đó là tâm lý kẻ ngụ cư, tâm lý kẻ lang thang, sống bên lề những xã hội ổn định, tâm lý những đứa con hoang, không được chiều chuộng và nâng đỡ về tinh thần. Một hình ảnh được sử dụng phổ biến ở phương Tây: mỗi thi sĩ là một gã Do Thái, từng người không có quê hương của mình và cả dân tộc không có Tổ quốc.
     I Miss You
    Cái tâm thế con vợ lẽ ở Xuân Diệu, cũng có nét tương tự: cảm giác bơ vơ và sự dễ thương người của ông gắn liền với tình thế như là không nơi bấu víu. Nhưng nét trội nhất trong tâm lý con vợ lẽ nó ảnh hưởng nhiều đến cách xử thế của Xuân Diệu có lẽ là sự nhẫn nhịn. “Qua sông nên phải luỵ đò – Tối trời nên phải luỵ cô bán dầu”. Vì tôi ở vào tình cảnh như thế, nên tôi phải chịu nước lép, chứ thực ra trong bụng, tôi thừa biết là tôi chẳng kém gì đời. Những ai đã sống qua cảnh con vợ lẽ nghĩa là ở vào một cái thế rất yếu trong đời hẳn dễ hiểu cái luỵ ấy, và Xuân Diệu càng rất hiểu. Hồi ký Tuổi trẻ Xuân Diệu (do Tịnh Hà ghi) và cuốn sách Đi hoang của Tịnh Hà cho biết: trong khi Tịnh Hà uất ức, phẫn nộ, đã phải bỏ cái đại gia đình kia để sống kiếp lang thang thì Xuân Diệu chọn con đường cắn răng cam chịu, ngoan ngoãn sống với thầy mẹ, dồn tất cả tâm sức vào việc học, vì biết rằng chỉ có học giỏi mình mới nên người, đền đáp xứng đáng công ơn má là người đã dứt ruột đẻ ra mình. Rồi ra sự nhẫn nhịn này sẽ còn đeo đẳng Xuân Diệu trong suốt cuộc đời. Bên trong cái con người ham sống, dám chường mặt ra mà đòi hỏi và cả xin xỏ cho được; bên trong cái con người tham lam vơ véo, lại tự ca tụng mình, tô chuông đúc tượng cho mình, tự coi tất cả những gì mình làm ra đều là ghê gớm, cao cả… thực ra lại có một con người khác, biết điều, an phận, sẵn sàng chịu nước lép, cốt sao được yên bề sống và viết.

    Trong số các sự kiện chính của cuộc đời Xuân Diệu trước 1945, có một việc mà ai cũng biết, nhưng lại ít nhắc tới, là việc ông bỏ sáng tác, đi làm tham tá nhà đoan. Sau cái giai đoạn rực rỡ 1935-39, Tự Lực văn đoàn đã bắt đầu lép vế. Qua năm 1940, thì sinh khí của nhóm gần như suy giảm hẳn. Tuy nhiên, mấy người rời bỏ văn đàn đều là những người có chí khí, và việc họ giã từ sáng tác là để có thì giờ đi sâu hơn nữa vào lý tưởng của họ. Cả Nhất Linh và Hoàng Đạo đều bỏ văn chương để đi vào chính trị. Chỉ riêng có Xuân Diệu là vì sinh kế. Nói cho rõ hơn, giữa cuộc đời lam lũ của cánh cầm bút, và cảnh sống khá giả của một công chức cao cấp, Xuân Diệu thấy cái thứ hai hấp dẫn hơn, vì thế, mới đi làm tham tá, để tập trung tiền nuôi Huy Cận học đại học Canh nông, sau khi Huy Cận ra trường, lương cao, bổng hậu rồi, Xuân Diệu mới quay về tiếp tục sáng tác. Đối với Xuân Diệu thì không có chuyện đặt thơ văn là mục đích tối thượng. Sáng tác dẫu sao cũng là yếu tố thứ hai, mà đời sống mới là yếu tố thứ nhất.
     I Miss You
    Cũng như lòng yêu đời, sự nhẫn nhịn ở Xuân Diệu hiện ra muôn màu muôn vẻ. Nhất là khi động đến quyền lợi thì trước tiên bao giờ ông cũng nhẫn nhịn, để cầu sự thương hại ở người khác mà cũng là để giành bằng được quyền lợi của mình.Cánh biên tập chúng tôi còn nhiều kỷ niệm về chuyện này. Giả sử bỗng nhiên biết rằng chúng tôi đang làm một số báo đặc biệt, hoặc ra một đầu sách, kỷ niệm sự kiện nào đó, thì dù bận trăm công ngàn việc, Xuân Diệu vẫn tìm bằng được một bài viết có chút liên hệ nào đó gửi tới để góp mặt.

    Đến với chúng tôi, Xuân Diệu tự nhiên khép nép biết điều, khác hẳn những ông lớn kiêu căng mà chúng tôi rất ngại – ông rủ rỉ hỏi han:

    - Đã in ngay chưa các cậu?

    - Đang làm anh ạ.

    - Có đánh máy ngay không ?

    - Còn phải chờ đủ tập chứ anh.

    - Khéo để mình mang về, chép lấy một bản giữ lại, rồi sẽ gửi sau.
     I Miss You
    Với một bài góp chung đã thế, nữa là với một tập sách riêng đứng tên Xuân Diệu! Dù gặp một biên tập viên trẻ, ông cũng làm mọi cách lấy lòng. Và ông hay nài nỉ, mặc cả, muốn rằng sách mình in ra thật dày, thật chững chạc. Cái cách Xuân Diệu chăm sóc tác phẩm khiến bất cứ người bình thường nào cũng ái ngại. Nữa là chúng tôi, vốn học ông từ nhỏ, nể ông nhiều, không nhượng bộ sao được.

    Bác Dương Thanh Huyên, một ký giả lớp trước có quen biết cả Nguyễn Tuân và Xuân Diệu hồi mới Cách mạng và trong kháng chiến chống Pháp, từng kể lại mấy mẩu chuyện vui vui. Có lần Thanh Huyên có dịp đi chợ Cầu Bố (Thanh Hoá) cùng với Xuân Diệu. Gặp một cửa hàng bán chiếc mũ cát bằng li-e thuần chất, Xuân Diệu khuyên Thanh Huyên mua. Và khi thấy Thanh Huyên còn dùng dằng, Xuân Diệu mắng yêu :

    - Cậu thi sĩ quá! Với cái mũ này “toa” có thể đi hết cuộc kháng chiến.

    Lời lẽ mỗi lần một khác nhưng tình thân là một: Xuân Diệu sợ chúng tôi say sưa quá, bốc đồng quá tử vì đạo, rồi không giữ được ngòi bút của mình. Hơn ai hết, ông hiểu về những lưỡi gươm Démocrites thường xuyên treo trên đầu người làm văn nghệ. Khi nói chuyện này giọng ông đột nhiên nhỏ hẳn đi khe khẽ thì thào. Rồi ông lắc đầu, ông lè lưỡi, ý bảo rằng sợ lắm, chính mình cũng sợ lắm, mà cỡ các cậu thì càng phải nên biết sợ ngay thì vừa, nên nhớ là sau có hối cũng không kịp!
     I Miss You
    Lại nói những chuyện xa xôi hơn một chút: Trong tâm trí của chúng tôi, Xuân Diệu là một trong những nhà thơ thông thái, nhà thơ của những kiến thức uyên bác. Từ 1946, ông đã có mặt trong đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam qua Pháp. Nhưng do chiến tranh kéo dài, mãi 1981, tức là 35 năm sau, trong khuôn khổ một số quan hệ được nối lại với nước Pháp, người ta mới lại thấy ông trở lại thăm cái xứ sở hoa lệ ấy. Ở đó, như báo chí đưa tin, ông có dịp diễn giảng trước các sinh viên đại học Paris về ảnh hưởng văn hoá phương Tây trong văn học Việt Nam, và về những nhà thơ cổ điển Việt Nam có nhiều ảnh hưởng trong đời sống. Nghĩa là, ông đã diễn thuyết toàn những vấn đề cơ bản cả. Thuận miệng và rất hồn nhiên, tôi hỏi Xuân Diệu khi gặp ông đi Pháp trở về:

    - Thế anh có dịp gặp Aragon hay những nhà thơ Pháp nổi tiếng, mà các anh vẫn nói với bọn này…

    Câu trả lời của Xuân Diệu là hoàn toàn bất ngờ với tôi:

    - Em ơi! Đâu người ta có gặp những người như mình. Xuân Diệu đến Pháp, chỉ để nói chuyện thơ với một số bạn Việt kiều và nhà chuyên môn thôi.

    Bấy giờ tôi mới sững ra. Sự biết thân biết phận, thường trực ở một người như Xuân Diệu, như một thứ bản năng thứ hai.
     I Miss You
    Trong chừng mực nào đó, phải nhận sự nhẫn nhịn ở Xuân Diệu là một cái gì đáng quý. Nó không chỉ là khiêm tốn, là biết điều. Sâu sắc hơn thế, nó chứng tỏ một nhận thức chính xác về tình thế người làm văn nghệ ở một nước mà đời sống vật chất còn nhiều khốn khó. Nó giúp cho người nghệ sĩ tránh khỏi những hoang tưởng bốc đồng quá đáng, làm phiền mọi người và làm phiền chính mình. Có điều nhiều khi Xuân Diệu đã đẩy nó đi quá xa, biến thành một cách sống cầu an, chiều đời, tự hạ thấp nhu cầu nghệ thuật và chất lượng sáng tác của mình một cách đáng tiếc.

    Ai cũng biết thơ Xuân Diệu sau 1945, có nhiều bài phải gọi là dở. Nó gò gẫm giả tạo. Nó chỉ chứng tỏ rằng người viết cố làm cho bằng được, chứ mất hết cả cái vẻ tự nhiên hồn hậu mà thơ hay đáng lẽ phải có. Tôi không trở lại với những ví dụ đầy rẫy trong thơ Xuân Diệu trong các tập Mẹ con, Riêng chung… in ra về sau, mà muốn trở lại một số bài thơ in ra từ 1946.

    Trong đoàn dân tộc đi chân lính

    Súng giữ liền tay, cày chẳng rảnh

    áo trên vai rách lấy tay gò:
     I Miss You
    Bụng vẫn thiếu cơm mà phải tỉnh

    Hỡi ôi! giành lấy sống cho nhau

    Chẳng dám tin trời rèn lấy mệnh

    Lâm li biết mấy hùng bao nhiêu

    Tiếng thảm run hoà thành nhạc mạnh.

    Khiên cưỡng! Nói lấy được! Ai cũng thấy thật không xứng đáng với tầm vóc con người đã viết những Nguyệt cầm, Thơ duyên, Lời kỹ nữ. Tuy nhiên để kéo lại, bài thơ lại nói được cái ý mà người viết và cả không ít người đọc lúc đó cần thiết: thơ phải gia nhập vào đời sống mới. Và bởi lẽ bài thơ lại đứng tên Xuân Diệu nên điều đó càng có ý nghĩa. Nó không còn là một bài thơ lẻ nữa. Nó là một thái độ. Bởi vậy, mới có chuyện bài thơ được in vào một tuyển tập mang tính cách tuyên ngôn Văn hoá và Cách mạng, và được đặt bên cạnh những bài viết sắc sảo khác.
     I Miss You
    Rồi ra, trường hợp như bài thơ trên sẽ còn trở đi trở lại nhiều lần với Xuân Diệu. ấy không còn là những sáng tác cụ thể nữa. Mà mỗi bài hoặc gần như mỗi bài, là một tuyên ngôn. Và việc sử dụng các bài thơ đó ở những vị trí trang trọng, mỗi lần một chút giúp vào việc hình thành ở Xuân Diệu cách hiểu mới về sự tồn tại. Từ nay mình đã thành nhân vật rồi. Cứ nín nhịn mà chịu đứng tên sau những bài thơ dở, thì rồi cuối cùng cũng vẫn có thể có một sự nghiệp. Với việc một tập thơ không mấy xuất sắc như Ngôi sao được giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955, Xuân Diệu càng có dịp củng cố cái triết lý nhẫn nhịn của mình, nhẫn nhịn trong sáng tác, ngoài ra, không tự ái, không xấu hổ, cứ nằn nì nài nẫm một hồi là chính anh em văn nghệ cũng sẽ thương, sẽ dành những phần thưởng xuất sắc cho mình. Sự nhẫn nhịn trong những trường hợp này gần như đồng nghĩa với tự đánh mất mình, biến con người vốn có của mình thành một con người khác.