phim Xác Ướp Ai Cập |
phim Xác Ướp Ai Cập
Từ thập kỉ 80 đến nay, cùng với việc ‘mở cửa’, với phong trào “Đổi mới”, các lí thuyết văn học phương Tây được giới thiệu ở Việt Nam ngày càng nhiều, trong đó có những lí thuyết khác, thậm chí đối lập với lí thuyết Macxit về văn nghệ. Nói chung, cũng như các mặt khác của đời sống xã hội, lí luận văn học của ta hội nhập dần vào đời sống học thuật quốc tế.
Báo cáo này của tôi giới hạn sự xem xét ở văn học Việt Nam, một phạm vi rất nhỏ so với chủ đề của cuộc Hội thảo, hơn nữa cũng chỉ về cách đọc văn học, tức là việc sử dụng những lí thuyết văn học ra đời ở phương Tây trong hoạt động nghiên cứu, phê bình (từ đây sẽ gọi chung là phê bình) văn học dân tộc đã và nên như thế nào. Tôi cũng lưu ý nhiều hơn đến các công trình phê bình Truyện Kiều của Nguyễn Du, một tác phẩm tiền hiện đại được coi là linh hồn của văn hóa Việt Nam. Lí do là vì Truyện Kiều cho đến hiện nay vẫn là “bãi thử” của những vũ khí phê bình mới, là “bộ máy” để kiểm tra sức khỏe những vị – khách – lí – thuyết đến từ phương Tây. Các lí thuyết lớn như phê bình phân tâm học, phê bình Macxit, cấu trúc luận, thi pháp học đều đã được vận dụng để phân tích Nguyễn Du và Truyện Kiều. Trong giới phê bình văn học Việt Nam có một định niệm bất thành văn như sau: Anh sẽ chưa được thừa nhận là nhà phê bình hạng nhất nếu chưa chứng tỏ khả năng trong phê bình Truyện Kiều. Ba trường hợp tôi cho là tiêu biêu để phân tích và rút ra kết luận gồm các công trình Nguyễn Du và Truyện Kiều (1941) của Nguyễn Bách Khoa, Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du (1970) của Lê Đình Kỵ và Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong truyện Kiều (1985) của Phan Ngọc. Đây chưa hẳn chúng đã là những công trình xuất sắc nhất về nghiên cứu Truyện Kiều, nhưng với tôi, chúng tiêu biểu cho ba giai đoạn khác nhau của qúa trình tiếp nhận và vận dụng các lí thuyết văn học phương Tây để đọc văn học dân tộc, cụ thể là Truyện Kiều của Nguyễn Du[1]. Bây giờ tôi xin đi vào nội dung chính.
phim Xác Ướp Ai Cập
Phê bình văn học hiện đại Việt Nam mới có cách nay khoảng một thế kỉ, các bài khảo cứu về thể loại văn học của Phạm Quỳnh như Khảo về tiểu thuyết, Khảo về phê bình… trên tạp chí Nam Phong (1917 -1934) ghi nhận một thời điểm chắc chắn sự có mặt của phê bình hiện đại. Có thể nói, phê bình văn học Việt Nam ra đời cùng với việc đọc văn học theo lối phương Tây, là sự tiếp cận văn chương theo các lí thuyết văn học của châu Âu thế kỉ XIX. Những cái tên như G. Lanson, H. Taine, S. Beuve, Plekhanov… không xa lạ gì với các nhà phê bình văn học ViệtNam ở đầu thế kỉ XX. Lối viết lịch sử văn học kiểu G. Lanson được các trí thức tây học biết rõ ngay từ trong nhà trường, phê bình tiểu sử của S. Beuve rất được ưa chuộng và được thực hành qua các công trình của Lê Thước, Trần Thanh Mại… Tuy nhiên người nổi bật nhất trong số những nhà phê bình vận dụng các lí thuyết Phương Tây để phê bình văn học ở giai đoạn trước 1945 là Nguyễn Bách Khoa (Trương Tửu, 1913-1999). Mỗi cuốn sách chuyên khảo của ông là sự vận dụng một (hay một vài) lí thuyết phê bình phương Tây để phân tích văn học dân tộc: Nguyễn Du và Truyện Kiều dùng phân tâm học của S. Freud và phê bình văn hóa – lịch sử của H. Taine, Kinh thi Việt Nam được ông phân tích theo quan điểm tâm lí cộng đồng, Tâm lí tư tưởng Nguyễn Công Trứ theo quan điểm Macxit và H. Taine…
phim Xác Ướp Ai Cập
Nguyễn Bách Khoa đọc rất nhiều các nhà khoa học phương Tây và vận dụng nhiều lý thuyết vào việc phê bình, không chỉ các lí thuyết văn học mà cả những lí thuyết khoa học khác: tâm lí học, thần kinh học, xã hội học… Đôi lúc số lượng trích dẫn lời của các nhà khoa học “kinh điển” có vẻ như quá mức. Ông định danh cho lối phê bình của mình là “phê bình khoa học” và giải thích rõ: Đó là cách phê bình trước khi tiếp cận đối tượng đã “có sẵn một hệ thống ý tưởng” (tức một lí thuyết). Khi nghiên cứu Nguyễn Du cũng như khi nghiên cứu bất kì một sự trạng văn học nào” cũng theo cách như vậy. Lối phê bình theo lí thuyết này đối lập với lối phê bình truyền thống: hoặc thiên về cảm thụ chủ quan, hoặc thiên về “phê bình phù phiếm”, như cách nói của ông, tức mô tả tỉ mỉ cái khéo trong việc đặt câu dùng chữ, tả người… Trong số các lý thuyết thì ba lý thuyết sau đây để lại dấu ấn đậm nét hơn cả trong các công trình tiêu biểu của Nguyễn Bách Khoa: Thuyết chủng tộc – địa lý của H. Taine, phân tâm học của S. Freud và học thuyết của K. Marx về phân chia giai cấp và văn học phản ánh xã hội. Học thuyết của K. Marx được vận dụng triệt để trong Tâm lí và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1943), hai lý thuyết kia chủ yếu được vận dụng trong công trình Nguyễn Du và Truyện Kiều (1941). Lí giải Truyện Kiều theo phân tâm học Freud, Nguyễn Bách Khoa cho rằng sinh lực, lòng ham sống và khí phách cá nhân của Nguyễn Du do di truyền huyết thống và địa phương tính tạo nên, bị ý thức hệ nho giáo của đẳng cấp nho sĩ mà ông là một thành viên dồn ép vào tiềm thức. Vì vậy, giữa ý thức hệ và tiềm thức luôn xung đột nhau và làm nên “tấn bi kịch của tâm hồn” cũng tức là tâm sự sâu thẳm của Nguyễn Du. Phê bình Truyện Kiều là chỉ ra những biểu hiện của tâm sự sâu thẳm này trong tác phẩm. Nếu sau này chúng ta có ngành phê bình phân tâm học văn học (psychoanalytical liteary criticism) thì các tác phẩm của Nguyễn Bách Khoa phải được xem là những viên gạch đầu tiên.
phim Xác Ướp Ai Cập
Nguyễn Bách Khoa còn lí giải Nguyễn Du và văn chương Truyện Kiều theo quan điểm của nhà phê bình văn học Pháp H. Taine. Trong cuốn La Fontaine và thơ ngụ ngôn của ông (La Fontaine et ses fables), H.Taine cho rằng có thể qua ba yếu tốnòi giống, hoàn cảnh địa lí và thời điểm lịch sử nhà văn sống để lí giải mọi sự bí ẩn của văn chương. Học tập Taine, Nguyễn Bách khoa lí giải rằng chất thơ hào hùng và trữ tình say đắm trong Truyện Kiều có được là do cá tính Nguyễn Du được cấu tạo nên bởi hai yếu tố thuộc huyết thống là chí cương cường của người Nghệ Tĩnh (từ người cha) và tinh thần mẫu hệ của văn hóa Bắc Ninh (từ người mẹ). Ngoài các lí thuyết văn học ra đời ở thế kỉ XIX nói trên, dường như ông cũng đã tiếp xúc được với các tài liệu của các lí thuyết văn học đương đại[2].
Phê bình khoa học của Nguyễn Bách Khoa bị phản ứng dữ dội từ các nhà phê bình theo lối truyền thống, nhất là Hoài Thanh[3]. Bị phê phán mạnh nhất là quan điểm của Nguyễn Bách Khoa cho rằng “Nguyễn Du là một con bệnh thần kinh” và “Truyện Kiều là kết tinh tinh thần của một chặng đường suy đồi nhất trên tràng kì tiến hóa của cá tính Việt Nam”[4]. Nguyễn Bách Khoa dùng chữ “bệnh thần kinh” ở đây không phải theo nghĩa thông thường như trong đời sống hàng ngày người ta vẫn dùng, mà theo nghĩa của khái niệm khoa học – khoa tâm bệnh học được dùng trong cuốn La personnalité humaine của Marcel Boll. Ông giải thích rõ, đó là thứ bệnh “thông thường”, “cứ 5 người thì có một người mắc” do “bộ giao cảm thần kinh không khoẻ khoắn”, do “căn tạng cảm xúc quá độ” (constitutions morbides) nên tính khí luôn trầm muộn, lo sợ hoảng hốt và mắc chứng ảo giác (hallucination). Cá tính ấy thể hiện trong văn chương thành “sự rung động thành thực và mãnh liệt, sự tưởng tượng dồi dào”, sự cảm xúc ủy mị và bi thương, sự cảm thông với đồng loại đau khổ và thần linh (Nguyễn Du và Truyện Kiều). Ta không biết chắc chắn la Nguyễn Du có mắc bệnh hay ưu uất (hysterie) như Nguyễn Bách Khoa nói không, nhưng cách làm của ông rõ ràng là không khoa học: các nhà thần kinh bệnh học đưa ra kết luận về một “con bệnh” nào đó, bao giờ cũng dựa trên kết quả của một chu trình thực nghiệm lâm sàng, còn ở đây Nguyễn Bách Khoa lại căn cứ vào văn thơ để chuẩn đoán “bệnh” cho Nguyễn Du. Trong phê bình văn học, đóng góp của Nguyễn Bách Khoa rất lớn, nhưng cũng dễ chỉ ra các sai lầm của ông, những sai lầm này có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là ở việc ông sử dụng lí thuyết phương Tây một cách cứng nhắc, như một bộ công cụ, bộ “đồ nghề” để làm việc với các hiện tượng văn học Việt Nam, không thấy những giới hạn của mỗi lí thuyết phê bình. Ngoài ra, có lẽ cũng còn do tư tưởng duy khoa học quá mức của ông và cảm quan thuộc địa trong phê bình văn học đầu thế kỉ.
phim Xác Ướp Ai Cập
Ở thời kì thứ hai của lịch sử phê bình hiện đại Việt Nam (1945-1980) tôi muốn lưu ý đến nhà phê bình Lê Đình Kỵ với công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du (1970). Thời kì này ở Miền Bắc, rồi sau 1975 là cả nước, tinh thần chung là chống các “lí thuyết tư sản”, phê bình hoàn toàn theo lí luận mĩ học Macxit được tiếp thu từ Liên xô, đặc biệt là phê bình các phương pháp nghệ thuật: Phương pháp nghệ thuật cổ điển chủ nghĩa, phương pháp nghệ thuật lãng mạn chủ nghĩa, phương pháp hiện thực chủ nghĩa, phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa… Theo quan điểm ấy, mỗi tác phẩm được sáng tác theo một phương pháp nghệ thuật nhất định. Truyện Kiều, theo Lê Đình Kỵ, cơ bản là tác phẩm hiện thực chủ nghĩa (réalisme).
Trong thập kỉ sáu mươi, Lê Đình Kỵ là một hiện tượng nổi bật trong đời sống lí luận phê bình văn học, người truyền bá tích cực nhất lí thuyết về các phương pháp nghệ thuật. Ông tham gia dịch nhiều sách lí thuyết văn học bằng tiếng Nga, là tác giả của Tập IV Các phương pháp nghệ thuật thuộc bộ giáo trình Những nguyên lí lí luận văn học. Năm 1970 Lê Đình Kỵ cho ra mắt chuyên khảo nổi tiếngTruyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du, đỉnh cao nhất trong sự nghiệp phê bình văn học của ông. Là một nhà lí luận văn học, một giáo sư chuyên giảng các khóa trình về phương pháp nghệ thuật, Lê Đình Kỵ còn (mà có khi trước hết) là một nhà phê bình rất nhạy cảm đối với cái đẹp văn chương và có lối văn uyển chuyển lôi cuốn. Về phương diện này, nhiều chỗ cây bút phê bình Lê Đình Kỵ có thể sánh ngang với Hoài Thanh. Trước một câu thơ tưởng như rất “bình thường” ông vẫn gọi ra được một ý nghĩa bất ngờ, thú vị. Trong câu thơ của Nguyễn Du nói về việc Thúy Kiều thoát khỏi lầu xanh Tú Bà để về ở với Thúc Sinh:Gót tiên thoắt đã thoát vòng trần ai, nhà phê bình nghe thấy “tiếng reo mừng” của “con người được giải phóng”: Câu thơ tả đêm động phòng hoa chúc của Kim-Kiều trong “màn tái hồi”: Động phòng dìu dặt chén mồi/ Bâng khuâng duyên mới ngậm ngùi tình xưa, ông thấy “một không khí chua chát bao trùm”, “một cái gì đổ vỡ không phương cứu chữa”[5]. Những cảm nhận cực tinh tế như vậy về tâm lí nhân vật, về các thủ pháp nghệ thuật của Nguyễn Du ta có thể gặp khắp nơi trong công trình này. Chúng đã cứu được cuốn sách khỏi sự tầm thường và lãng quên như bao công trình phê bình phương pháp sáng tác thời ấy phải đón nhận. Bởi vì khi lấy cái sơ đồ lí thuyết về văn học hiện thực chủ nghĩa thế kỉ XIX ở phương Tây áp dụng vào một tác phẩm thời trung đại như cách làm của ông ở đây là không thích hợp. Trong công trình vẫn thấy những nguyên tắc đánh giá của chủ nghĩa hiện thực như: miêu tả bức tranh xã hội của thời đại, chi tiết chân thực, hoàn cảnh điển hình và nhân vật điển hình…, cái khung lí thuyết chung thì vẫn thế, nhưng luôn có tình trạng “vượt khung” (Trần Đình Sử), vượt khung vì ông say mê cái đẹp nghệ thuật, coi trọng thực tế tác phẩm, ngưỡng mộ thiên tài Nguyễn Du. Lê Đình Kỵ áp dụng lí thuyết nhưng không hoàn toàn lấy tác phẩm làm sự minh họa cho lí thuyết, “không vì lí thuyết mà quên mất thực tiễn” (tác phẩm). Nếu có sự không tương ứng giữa lí thuyết và tác phẩm, không phải bao giờ ông cũng dễ dàng lựa chọn lí thuyết. Chẳng hạn cách ông đối xử với đoạn “tái hồi” trong Truện Kiều. Theo ông dù trái với hiện thực nhưng đọc đến đây người đọc vẫn thấy tin Nguyễn Du, “người ta vẫn thừa nhận cái tiền đề: cuộc đoàn viên là có khả năng tính”. Một nhà lí luận khi phê phán ông đã nhận định: “Tiếc rằng khi ứng dụng vào thực tế văn học Việt Nam, tác giả đã không tuân theo những điều (quan điểm lí luận – TBĐ) mà mình đã công nhận và truyền bá”[6]. Vấn đề Truyện Kiều có phải được sáng tác theo phương pháp nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa không đã khiến ông đắn đo rất nhiều. Ông viết hẳn một chương sách rất hay về cái gọi là “Những ràng buộc của mĩ học đương thời” nhằm chỉ ra những “khiếm khuyết” của phương pháp hiện thực chủ nghĩa trong Truyện Kiều. Ở đây những phát hiện về cách nhìn và các nguyên tắc nghệ thuật của văn học cổ điển rất có giá trị. Theo nhà phê bình Huỳnh Như Phương thì về cuối đời ông muốn đổi tên cuốn sách làTruyện Kiều – đỉnh cao nghệ thuật. Điều ấy cho thấy ông muốn từ bỏ cái gọi là “chủ nghĩa hiện thực trong Truyện Kiều“.
Như vậy, Lê Đình Kỵ đã không chọn con đường minh họa giản đơn các nguyên tắc của chủ nghĩa hiện thực được khái quát từ giới làm lí luận nước ngoài và dù ông chưa làm được cái việc “nhào nặn lại” chúng thì cũng không nhắm mắt tuân theo chúng. Trường hợp ngược lại ta có thể thấy trong các công trình về chủ nghĩa hiện thực của Đỗ Đức Dục. Phê bình các tác phẩm của văn học dân tộc như tiểu thuyết Hoàng Lê nhất thống chí (tk. XVIII), thơ Tú Xương (tk.XIX) và nhiều tác phẩm khác, Đỗ Đức Dục không bao giờ rời xa các nguyên tắc của lí thuyết hiện thực chủ nghĩa. Kết quả, những công trình ấy giờ ra sao thì chúng ta đã biết. Cần nói thêm là Đỗ Đức Dục biết rất rõ văn học hiện thực chủ nghĩa phương Tây và các lí thuyết về nó. Trước năm 1980 việc vận dụng các lí thuyết phương Tây (chưa kể các thập kỉ 60-70 ở đô thị miền Nam) nói chung là như vậy.
phim Xác Ướp Ai Cập
Từ thập kỉ 80 đến nay, cùng với việc ‘mở cửa’, với phong trào “Đổi mới”, các lí thuyết văn học phương Tây được giới thiệu ở Việt Nam ngày càng nhiều, trong đó có những lí thuyết khác, thậm chí đối lập với lí thuyết Macxit về văn nghệ. Nói chung, cũng như các mặt khác của đời sống xã hội, lí luận văn học của ta hội nhập dần vào đời sống học thuật quốc tế. Có thể nói sơ lược về một vài xu hướng như sau:
- Xu hướng phê bình ngôn ngữ học: bao gồm nhiều trường phái như cấu trúc luận, kí hiệu học, tự sự học… Đó là những trường phái lí thuyết văn học tiêu biểu ở phương Tây thế kỉ XX. Hầu hết chúng đều có xuất phát điểm là vận dụng các quan điểm và phương pháp nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học như F.de Saussure, L. Hjelmslev… Từ giữa những năm 80 đã có một số nhà phê bình của ta vận dụng các lí thuyết đó như của Phan Ngọc: Phong cách của Nguyễn Du trong Truyện Kiều (xuất bản năm 1985), Hoàng Trinh: Kí hiệu, nghiên cứu và phê bình văn học… Những năm gần đây xu hướng này ngày càng phát triển, như các công trình của Đỗ Đức Hiểu được tập hợp trong cuốn Thi pháp hiện đại. Lối nghiên cứu văn học theo tự sự học cũng đang thành một phong trào trong khu vực học viện và các trường đại học.
- Xu hướng phê bình sự đọc: Bao gồm hiện tượng học, thông diễn luận… Các công trình giới thiệu những trường phái này cũng đang rất sôi nổi. Từ thập kỉ 80 đã có nhiều bài báo giới thiệu lí thuyết tiếp nhận của Nguyễn Lai, Nguyễn Thanh Hùng, Trần Đình Sử. Hai tác giả đầu đã có thời gian học tập và nghiên cứu tại Đức, nơi lí thuyết tiếp nhận rất phát triển. Những năm gần đây, có một số công trình khoa học đáng chú ý của Trương Đăng Dung. Nói chung, ý nghĩa của sự đọc, vai trò của người đọc ngày càng được giới phê bình chú ý.
phim Xác Ướp Ai Cập
- Xu hướng tâm lí học: Như trên đã nói, trước 1945 ở ta đã có Nguyễn Bách Khoa áp dụng tâm lí học vào nghiên cứu Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Du. Hai thập niên vừa qua việc giới thiệu các lí thuyết tâm lí học của Freud, Jung, Vygotski… thu hút được sự chú ý của giới phê bình. Phê bình phân tâm học của G. Bachelard cũng được giới thiệu. Người có những thành công bước đầu trong việc vận dụng tâm lí học vào phê bình văn học Việt Nam hiện nay là Đỗ Lai Thúy. Đỗ Lai Thúy viết về hoài niệm phồn thực của thơ Hồ Xuân Hương, về những ẩn ức trong thơ Hoàng Cầm… đưa lại một số nhận thức mới mẻ.
Lí thuyết hậu hiện đại cũng bắt đầu du nhập vào Việt Nam. Trong các nghệ thuật khác như hội họa, sân khấu, vũ đạo… luôn vang lên thuật ngữ “hậu hiện đại”. Còn trong văn học một số nhà phê bình “thấy” các yếu tố hậu hiện đại từ các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp (?), Phạm Thị Hoài cho đến các tác giả gần đây như Nguyễn Bình Phương chẳng hạn.
phim Xác Ướp Ai Cập
Trong số các lí thuyết trên, cho đến nay, thuyết cấu trúc – kí hiệu học vận dụng vào phê bình văn học Việt Nam thành công hơn cả. Có thể do văn học phương Đông có nhiều tính quy phạm và tượng trưng nên là đối tượng thích hợp cho những nghiên cứu của lí thuyết này. Các kết qủa có thể thấy rõ qua các công trình của Phan Ngọc, Đỗ Đức Hiểu và phần nào của Đặng Tiến, đặc biệt, tôi muốn lưu ý đến người đầu tiên với công trình Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều[7]. Phan Ngọc là một nhà bách khoa (hình như là nhà bách khoa cuối cùng của chúng ta) kiểu như Đào Duy Anh, Trần Trọng Kim, Nguyễn Hiến Lê… Ông vừa là nhà ngôn ngữ học, nhà phê bình văn học, nhà sử học, nhà văn hóa học, nhà nghiên cứu lịch sử tư tưởng, dịch giả nổi tiếng thông hiểu nhiều ngôn ngữ và văn học cả phương Đông lẫn phương Tây. Cuốn chuyên khảo về Truyện Kiều được ông viết trên nền tảng một kiến thức tổng hợp, liên ngành, nhưng cốt lõi là lí thuyết cấu trúc. Là một nhà ngôn ngữ học nổi tiếng, các lí thuyết ngôn ngữ học của F. de Saussure, R. Jakobson, N. Troubetskoy… không xa lạ gì với ông, hơn nữa ông còn tiếp nhận rất chủ động, có đánh giá. Ông coi các lí thuyết được tiếp thu từ bên ngoài chỉ là những kiến thức như các tri thức khác cần được đánh giá, nhào nặn lại để hình thành nên một phương pháp riêng thích hợp cho việc nghiên cứu một đối tượng cụ thể. Cuốn chuyên khảo về Truyện Kiều của ông không giống với bất kì cuốn chuyên khảo nào trên thế giới. Tuy vậy về cốt lõi nó chịu nhiều ảnh hưởng của thuyết cấu trúc. Mục tiêu của nhà phê bình ở đây là tìm hiểu đặc trưng nghệ thuật riêng biệt mà ông gọi là “phong cách Nguyễn Du”. Phan Ngọc viết “Đặc trưng ấy là tính thống nhất hữu cơ của các bộ phận trong một chỉnh thể, hay nói khác đi, tính cấu trúc của nó. Tính cấu trúc của phong cách biểu lộ ở chỗ chỉ nhìn một bộ phận ta đoán biết được toàn thể… chỉ cái gì mang tính cấu trúc chặt chẽ đến như vậy thì cái đó mới có phong cách”[8]. Những lời như thế hiển nhiên là rất quen thuộc với nhà cấu trúc luận ở bất kì đâu trên thế giới. Phan Ngọc cũng phân tích Truyện Kiều theo hai trục đồng đại (synchronie) và lịch đại (diachronie), cũng coi ngôn ngữ như một hệ tín hiệu gồm hai mặt là hình ảnh âm thanh và khái niệm (nghĩa). Từ đó ông không tách tác phẩm ra thành hai phần là nội dung và hình thức để xem xét như cách làm của các nhà phê bình Việt Nam cho tới lúc đó, mà “khi nói đến nội dung thì nói luôn cả cách hình thức hóa nội dung, và ngược lại khi nói đến hình thức thì nói luôn hình thức này có tác dụng gì trong việc thể hiện nội dung đã chọn”. Như vậy, nội dung là nội dung được xây dựng theo một hình thức nào đấy, hình thức là hình thức riêng của một nội dung nhất định. Với lí thuyết mà Phan Ngọc gọi là phong cách học này, ông đã có nhiều phát kiến về nghệ thuật Truyện Kiều như: cách tự sự của Nguyễn Du, Truyện Kiều - một tiểu thuyết tâm lí, bố cục theo lối của nghệ thuật kịch… Các nhà phê bình theo cấu trúc luận thường bị phê phán là chỉ bó hẹp vào việc phân tích văn bản, tách văn bản khỏi môi trường mà nó tồn tại, coi văn bản có ý nghĩa tự nó. Phan Ngọc trong công trình này không mắc nhược điểm ấy. Khi phân tích Truyện Kiều, ông luôn đặt văn bản trong cấu trúc văn hóa của thời đại Nguyễn Du, không cắt đứt văn bản khỏi tiến trình văn học Việt Nam và Đông Á cho đến lúc ấy. Phương pháp cấu trúc và phương pháp lịch sử bổ trợ nhau. Công trình không phải là không có thiếu sót, nhưng tôi vẫn xem đây là một mẫu mực của cách vận dụng các lí thuyết phương Tây vào phê bình văn học ViệtNam.
phim Xác Ướp Ai Cập
Để kết thúc bài viết này tôi xin đưa ra hai khuyến cáo sau đây:
1/ Cần thấy giới hạn của các lí thuyết phê bình: cho đến nay, mỗi lí thuyết đều nhằm nhấn mạnh vào một yếu tố nào đấy của văn học: hoặc nhà văn (phê bình tiểu sử), hoặc văn bản (cấu trúc luận, phê bình Mới…), hoặc người đọc (lí thuyết tiếp nhận), hoặc vào môi trường ngoài văn bản (lí luận của Taine, lí luận Macxit…). Mỗi lí thuyết có một thế mạnh nhất định, song cũng có giới hạn, còn “một phương pháp tổng hợp còn chưa được tìm ra”( Yu. Tynianov). Chúng ta nên nắm được nhiều lí thuyết để tuỳ từng trường hợp cụ thể, theo những yêu cầu nghiên cứu nhất định mà ta sử dụng phương pháp phê bình này hay khác.
2/ Không nên tiếp thu nguyên xi một mô hình lí thuyết nào đấy, rồi sử dụng các nguyên tắc của nó như một bộ công cụ có sẵn để phê bình văn học dân tộc. Cần coi các lí thuyết như các kiến thức, như các mách bảo cho nhận thức, kết hợp với các kiến thức khác và kinh nghiệm để tự thiết lập nên một phương pháp phù hợp nhất với đối tượng và những mục tiêu đặt ra./.
Hà Nội ngày 10 tháng 3 năm 2011
* Tham luận tại Hội thảo Quốc tế “Tiếp cận văn học châu Á từ lý thuyết phương Tây hiện đại: vận dụng, tương thích, thách thức và cơ hội” ([Pre]Modern Asian Literatures Read through Modern Western Theories: Applications, [In]Compatibilites, Challenges, and Opportunities) do Viện Văn học tổ chức trong hay ngày 14 và 15 tháng 3 năm 2001 tại Hà Nội – với sự đồng tài trợ của Viện Harvard Yenching (Hoa Kỳ) và Quỹ Giao lưu Văn hóa Nhật Bản (Japan Foundation)
[1] Xem Trịnh Bá Đĩnh: Di sản của Nguyễn Du và thời gian. Trong cuốn: Nguyễn Du- về tác gia, tác phẩm. Nxb. Giáo dục, H., 1998
[2] Hãy đọc những dòng sau đây: “Nhưng tiếng nói vừa là một âm thanh, mà lại vừa là một ký hiệu” (signe), một tượng trưng (symbol), để các người trong xã hội dùng đến khi muốn hiểu nhau. Nó chứa đựng một ý nghĩa mà xã hội đã định cho nó… Tập thơ mà một thi sĩ sáng tác ra vừa là một tương quan âm thanh, vừa là một tương quan biểu tượng và ý niệm”.(Trương Tửu: Tuyển tập nghiên cứu, phê bình. Nxb. Lao động, H., 2007, tr.393). Đó chả lẽ lại không phải là quan điểm của kí hiệu học?
[3] Hoài Thanh châm biếm rằng: với ông Nguyễn Bách Khoa cái gì cũng có thể cắt nghĩa được như 2 với 2 là 4. Theo Hoài Thanh “Muốn bước vào thế giới như thế giới Đoạn Trường tân thanh, thái độ đúng và khoa học hơn cả là bỏ hết các kiến thức khoa học ở ngoài cửa để đi vào với tấm lòng chân thành và thanh khiết” (Một vài ý kiến về quyển “Nguyễn Du và Truyện Kiều” của ông Ngguyễn Bách Khoa. Trong Vì chúa nguyệt san, số 28, tháng 7, 8, 1943). Trong việc đọc văn học, Hoài Thanh chỉ tin vào cảm thụ chủ quan, ông chủ trương phê bình phi lí thuyết: “Cho hay những lí thuyết chẳng có nghĩa lí gì, chẳng ăn thua gì” (Văn chương và hành động. Nxb. Hội nhà văn, H., 1999, tr. 8).
phim Xác Ướp Ai Cập
[4] Trương Tửu, sdd. tr. 416
[5] Lê Đình Kỵ, Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du, Nxb. Khoa học xã hội, H., 1970, tr. 190
[6] Nguyễn Xuân Nam, Về cuốn Các phương pháp nghệ thuật của Lê Đình Kỵ. Tạp chí văn học, 1962, số 11, tr. 28
No comments:
Post a Comment